Bài thơ Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư


Như một phút chợt dừng trong trường tình phiêu lưu của Lưu Trọng Lư, "Tiếng thu” dội lên âm thanh day dứt của một thời xa xưa và còn vọng mãi đến bao giờ?
Xuất hiện giữa mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh lẽo, mùa thu mát dịu và mơ màng là nguồn cảm hứng bất tận của văn nhân, thi sĩ xưa nay. Viết Thu vịnh và Đây mùa thu tới, Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu đã đóng góp cho văn học sử nước nhà hai bài thơ hay về cảnh thu và tình thu. Với Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã dọn cho mình một chỗ ngồi khá độc đáo trên văn đàn của những thi sĩ mùa thu:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?


Chủ đề tiếng thu đã được nhà thơ thể hiện trước hết bằng từ ngữ. Xuyên suốt bài thơ là một từ “nghe” xuất hiện ba lần ở đầu mỗi khổ thơ. Người đọc nghe gì?
Chúng ta nghe lời “thổn thức” dưới ánh trăng mờ của mùa thu được nhân cách hóa, nghe tiếng lòng “rạo rực”xào xạc” trong rừng vắng. của người cô phụ có chồng đi đánh giặc xa, nghe tiếng lá thu rơi “

Chủ đề tiếng thu còn được tác giả diễn tả bằng thanh âm. Đó là hai câu thơ có toàn thanh bằng xuất hiện ở đầu khổ thơ thứ nhất và thứ ba: “Em không nghe rừng thu”

Trước cách mạng tháng Tám, trong khi câu thơ Đường và thơ lục bát với luật gián cách bằng trắc còn ngự trị trên văn đàn, Lưu Trọng Lư đã sáng tạo và độc đáo khi tự do viết những câu thơ ngũ ngôn có toàn thanh bằng để miêu tả tiếng thu.
Đọc những câu thơ này, cùng với sự hỗ trợ của nguyên âm “u” tròn môi xuất hiện nhiều lần ở cuối câu thơ, ta như nghe được tiếng thu êm đềm, nhẹ nhàng và vang vang của tác giả.

Cú pháp của bài thơ cũng góp phần biểu hiện tiếng thu. Không phải ngẫu nhiên mà cả ba khổ thơ của bài Tiếng thu đều được viết bằng ba dấu hỏi ở cuối ba khổ thơ này. Tại sao tác giả phải hỏi liên tục như vậy? Tại vì nhà thơ không tin người em nào đó có thể nghe được cái tiếng thu quá xa vắng và mơ hồ. Không nghe ư? Em hãy lắng lòng sâu đậm để tiếp nhận tiếng thu dịu nhẹ và mơ màng ấy.

Cấu trúc của bài thơ cũng được tác giả sử dụng để thể hiện chủ đề tiếng thu. Hầu hết các bài thơ cũ và thơ mới đều được viết thành những khổ bốn câu đều đặn. Ở bài thơ này, số dòng trong mỗi khổ thơ tăng dần đều. Nếu xem mỗi dòng là mỗi khổ thơ thì khổ thứ nhất có hai câu, khổ thứ hai có ba câu, khổ thứ ba có bốn câu. Nhà thi sĩ có ý thức khi viết những khổ thơ như vậy để diễn tả một cách có nghệ thuật cái tính chất ngân nga, lan tỏa của thu thanh.
Thêm vào đó, cách gieo vần liền bằng các từ láy đặt ở cuối câu thơ đã liên kết các câu thơ trong khổ (“xào xạc” với “ngơ ngác”) và các khổ trong bài (“thổn thức” và “rạo rực”), vừa làm giàu yếu tố nhạc của thơ, vừa làm cho các câu thơ và khổ thơ như kéo dài ta và nối lại với nhau, tạo cho bài thơ cái âm hưởng miên man của khúc thu ca.

Để thưởng thức trọn vẹn giai điệu mùa thu của
Lưu Trọng Lư, hãy đọc lại Tiếng Thu, đọc liền mạch và chỉ dừng lại một giây khi gặp dấu chấm hỏi. Hãy tưởng tượng có ai đó ném xuống mặt nước phẳng lặng của hồ thu một viên đá nhỏ. Nhiều vòng tròn sóng đồng tâm xuất hiện và lan tỏa mãi. Đó là hình ảnh làn sóng âm thanh của tiếng thu mà nhà thi sĩ Lưu Trọng Lư đã làm vang lên trong tâm hồn mỗi người.

Hai dòng thơ cuối của Tiếng thu đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh:

"Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"


Ta nghe gì khi nhìn thấy hình ảnh ấy? Có phải ta nghe tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới những bước chân nai ngơ ngác? Tiếng thu đích thực của Lưu Trọng Lư là như vậy đó. Ta không nghe tiếng thu ấy bằng tai mà nghe bằng trí tưởng tượng, nghe vang lên trong tâm hồn, mỗi khi thấy lá ngoài đường rụng nhiều và những đám mây bàng bạc trên không...

Tắt một lời, thu thanh của
Lưu Trọng Lư là vô thanh. Đó là cái "vô thanh thắng hữu thanh" mà tác giả Tỳ Bà Hành là Bạch Cư Dị đã một lần khẳng định trong cảnh trăng nước tương giao trên bến Tầm Dương. Với nhận thức tinh tế của nhà thi sĩ, trong Đây mùa thu tới, Xuân Diệu đã cảm được cái tiếng thu ấy khi nhìn những "thiếu nữ buồn không nói”. Bằng trí tuệ của một nhà phê bình có biệt tài, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã "ngộ" được cái thu thanh ấy khi bình Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.

"Tiếng thu" ấy, riêng gì mùa thu mới có? Tuy nó phát khởi từ mùa thu nhưng nó đã vang bên tai loài người từ muôn đời thì bao giờ chả còn chút dư âm sau những ngày thu tàn tạ. Đã sống nhiều trong cuộc đời tư tưởng thì dầu trong mùa đông hay mùa xuân, mùa thu hay mùa hạ, ai là người không có những buổi “chiều thu”, những buổi mà cái buồn vẩn vơ nó đến van lơn cám dỗ, những buổi mà tiếng thu vàng, gieo vừa nhẹ, vừa chìm...


Xem tiếp


Sáu mặt đời lắc cắc tiếng thơ anh



Có thể nói, Hoàng Nhuận Cầm là nhà thơ của những trạng huống xao xuyến, bâng khuâng… rất khó biểu đạt. Thơ anh giàu nhạc tính, có sức ngân vang. Với anh, ngoài phần hình ảnh (là phần mà anh có nhiều tìm tòi) thì nhạc giữ một vai trò quan trọng, tạo nên sức nặng và sức chinh phục. Điều này lý giải tại sao, trong nhiều chương trình thơ, Hoàng Nhuận Cầm thường thích trực tiếp đọc thơ mình chứ ít chịu để người khác… ngâm vịnh.

Nếu ví một bài thơ như cái cây thì có cây - thơ chỉ quý ở phần củ xù xì nằm sâu dưới gốc, lại có cây - thơ đáng giá nhất là ở phần lá xanh trên ngọn. Nền thơ chúng ta từng có một số tác giả đã kết tinh trong thơ mình những suy ngẫm, triết luận sâu sắc. Đó chính là những tứ thơ quý giá ẩn sâu dưới những tầng rễ câu chữ mà người đọc phải dày công đào bới bằng những thao tác tư duy sắc nhọn mới tìm thấy được. Thơ Hoàng Nhuận Cầm ngược lại, như một thứ cành lá xanh tươi cứ mướt mát, rời rợi trên vòm cao vẫy gọi người đọc. Thi sĩ Tây Ban Nha Garcia Lorca từng nói: “Thơ là lửa và lửa thì rất khó giải thích”.
Với thơ Hoàng Nhuận Cầm, nhiều chỗ ta chẳng cần phải giải thích dài dòng mà chỉ đơn thuần đọc lên thôi - đọc đúng như giai điệu mà tác giả quy ước trong bài thơ của anh, là bạn đọc có thể cảm được cái hay, cái đẹp của nó. Với nội dung bay bướm, hướng về tuổi trẻ, cách diễn đạt nhuần nhị, trong sáng, cộng với cái du dương, quặn siết của giai điệu, thật dễ dàng để thơ Hoàng Nhuận Cầm chinh phục được đông đảo độc giả, nhất là độc giả thuộc lứa tuổi học sinh, sinh viên. Từng có thời, Hoàng Nhuận Cầm được coi là “ông vua thi sĩ” của tuổi học đường.
Cầm bút từ rất sớm song Hoàng Nhuận Cầm chỉ thực sự được bạn đọc biết đến rộng rãi kể từ lần anh đoạt giải nhất cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ năm 1972 - 1973 với chùm thơ Nhật ký, Thư mùa thu, Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt, Anh bộ đội và tiếng nhạc la. Cùng đoạt giải nhất với anh là các nhà thơ Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Lâm Thị Mỹ Dạ.  Những năm ấy, cuộc chiến chống Mỹ của chúng ta đang vào giai đoạn cực kỳ khốc liệt, vậy mà qua thơ Hoàng Nhuận Cầm, ta thấy một bầu không khí êm ả, thơ mộng, nhẹ nhõm vui tươi đến lạ. Đây là hình ảnh anh bộ đội trong phút trực chiến vẫn không quên lắng nghe tiếng chim:
Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng
Nghe lăn lăn những tiếng chim xuống hầm.

(Bài Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt).
Và đây, hình ảnh người lính trẻ trên đường truy kích giặc:
Đêm Trường Sơn, ngôi sao như trong hơn
Cầm này lại đi, lại đi…thôi chào nhé
Ta chẳng còn bắt ve, ta chẳng còn thơ bé
Thay việc bắt ve, ta lùng bắt quân thù quanh mỗi gốc xà nu.

(Bài Thư mùa thu).
Việc hệ trọng, nguy hiểm đến vậy mà cứ như trò chơi con trẻ - thật chẳng ở đâu việc bắt giặc dễ dàng hơn?! Đọc những câu thơ trên, nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn đã có một nhận xét vui: “Nguyên cái cách so sánh “lùng bắt quân thù quanh mỗi gốc xà nu” với việc “bắt ve” ngày thơ bé chứng minh anh là lính mới tò te”. Và Nguyễn Hoàng Sơn đồ rằng “cái cây xà nu của Cầm cũng là cái cây xà nu trong sách giáo khoa của Nguyên Ngọc, chưa phải cái cây thực anh gặp trên rừng?” (bài giới thiệu tập Hoàng Nhuận Cầm - thơ với tuổi thơ, NXB Kim Đồng, 2003).
Trước đây, Hoàng Nhuận Cầm từng có lần tâm sự rất thật với tôi: Ngay từ lúc được trao giải, anh đã hiểu rằng đấy là vinh dự mà lớp cha anh đã trao cho các anh, những cây bút trực tiếp cầm súng chiến đấu (khi ấy Hoàng Nhuận Cầm đang là bộ đội cao xạ). Bản thân nhà thơ Xuân Diệu, trước khi trích dẫn mấy câu thơ kết bài thơ Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu của Hoàng Nhuận Cầm đã phải thốt lên nhận xét, đó là “mấy câu thơ đại diện cho lứa trẻ anh hùng đi đánh giặc, họ đáng cho ta kính trọng ngàn lần và thương yêu vạn lần”.
Sau này, khi đã trải đời, đã tiếp cận được với “mặt sau” khắc nghiệt của chiến tranh, Hoàng Nhuận Cầm đủ tỉnh táo và dũng cảm để nhận ra: “Câu thơ cũ có gì không thực nữa/ Chớp qua hồn như pháo sáng mà thôi”, để rồi “Mùa xuân ấy dưới màu hoa rất đỏ/ Anh xếp ba lô, lặng lẽ đốt thơ mình” (bài Dưới màu hoa rất đỏ). Việc ban đầu Hoàng Nhuận Cầm có ý định lấy cái tên “Tái bút của người lính” để đặt cho tập thơ Xúc xắc mùa thu của mình (NXB Hội Nhà văn, 1992), cũng như việc anh thổ lộ trong bài phát biểu cảm tưởng tại lễ nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1993) cho tập thơ nói trên, rằng anh muốn “lấy giải thưởng để trả nợ giải thưởng” đã là một minh chứng cho sự trưởng thành về nhận thức của anh.
Quả thực, so với tập Thơ tuổi hai mươi in chung với Vũ Đình Văn năm 1974 (trong đó có chùm bài được giải báo Văn nghệ năm 1972-1973), thì ở phần thơ in trong Xúc xắc mùa thu, Hoàng Nhuận Cầm đã có cách phản ánh cuộc chiến thấu thị hơn. Nếu như ở tuổi hai mươi, Hoàng Nhuận Cầm từng viết: “Mùa khô ơi, mùa khô thân yêu/ Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ/ Nhưng trong những ba lô kia, ai bảo là không có/ Một hai ba giọng hát chú ve kim?” (bài Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu) thì ở phần “tái bút” này, ta lại gặp ở anh những câu thơ xa xót:
Nhớ thu đến - Hạ đi trong trống trận
Tiễn tuổi thơ không một tiếng kèn
Đó hoa phượng, ôi mười năm hoa phượng
Rơi ngút ngàn trên những hố bom đen. 

(Bài Dưới màu hoa rất đỏ).
Càng hiểu những hy sinh mất mát của thế hệ mình trong cuộc chiến, tác giả càng biết trân trọng giấc mơ con trẻ thời bình: “Này em/ Anh nhớ ngày mai quá/ Có thể là/ Con gái sẽ ngủ quên/ Trên cây đàn/ Chúng mình mua quá đắt/ Nhưng em đừng đánh thức/ Giấc mộng Su-man còn đắt hơn nhiều” (bài Nhớ ngày mai).
Thế hệ nào cũng có bi kịch của mình. Khá nhiều bài trong tập Xúc xắc mùa thu nghiêng về khai thác nỗi đau mất mát của tuổi học trò (có thể xem là thời hậu chiến): “Và như thế mười năm bớt dại/ Nỗi khôn ngoan ám sát tuổi học trò/ Cà phê rót đầm đìa qua phượng đỏ/ Ngày cuối cùng ta vứt hết ngây thơ” (bài Đêm nay).
Đọc thơ Hoàng Nhuận Cầm, ta thấy hiện ra nhiều những hình ảnh gắn với lứa tuổi học sinh, sinh viên, những “mực tím”, “giấy trắng”, “chiếc khăn quàng mang màu than đỏ cháy”, “hoa phượng mùa thi”; những cô gái đang độ “Trăng lên tuổi mười sáu em/ Tóc bay ngang qua đèo gió hú”… với giọng thơ nhiều luyến tiếc. Nói chung, hướng về lứa tuổi này là anh hướng về những tâm tình còn ngây thơ, trong sáng, trong đó các bài Chiếc lá đầu tiên, Những thời vô tội, Xúc xắc mùa thu… là tiêu biểu hơn cả.
Như trên đã nói, là thi sĩ của tuổi học trò (trước nhất của tuổi học trò), Hoàng Nhuận Cầm đã mang trong mình những đặc tính của lứa tuổi này: Mộng mơ và tinh nghịch. Ngay cả cái tên Xúc xắc mùa thu, nghe vừa mơ màng cổ điển vừa có vẻ gì tung tẩy, phá cách. “Nếu tôi chết - rượu buồn hãy cạn” trang nghiêm đấy thì “Thôi lạy người! Uống hộ một ly” lại có vẻ cợt đùa rồi. Thơ Hoàng Nhuận Cầm cứ đan xen như thế. Anh không ngần ngại đưa những chữ như “cướp”, “ám sát”, “khốn nạn”… vào trong thơ. Bên cái mượt mà, thánh thót của pianô, thỉnh thoảng ta lại giật mình bởi tiếng thình thình của trống đệm.
Thơ Hoàng Nhuận Cầm cứ nửa “truyền thống”, nửa “hiện đại” như vậy. Âu đó cũng là cái duyên riêng góp phần làm nên sức hấp dẫn của thơ anh. Kể cả trong những buồn đau, Hoàng Nhuận Cầm vẫn luôn tìm cách khai thác vẻ đẹp của nó. Anh tài hoa và anh làm dáng. Điều này cũng dễ hiểu.
Bỏ qua những câu thơ mạ vàng mạ bạc: “Tiếng chim kêu óng ả trước hiên nhà”, những “đục đẽo” kỳ khu: “Cây tương tư khốn khổ trổ thêm cành”, ta sẽ gặp trong thơ anh không ít những câu giản dị mà lay động: “Đây mười ba bậc cầu thang/ Bàn chân Cầm xéo vội vàng vào chân” (bài Nhớ Vũ Đình Văn); “Ta đã đi như mèo trên phố vắng/ Gọi tên con như gọi các thiên thần/ Có một nốt không bao giờ con biết tới/ Là nốt buồn cha đã nuốt thay con” (bài Nhớ ngày mai); “Hò hẹn mãi cuối cùng em đã tới/ Như cánh chim trong mắt của chân trời/ Ta đã chán lời vu vơ, giả dối/ Hót lên! Dù đau xót một lần thôi” (bài Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến); “Đường cha bước đây ngày hoa đỏ thắm/ Rơi như mưa, như máu đổ bên đường/ Môi đã đến tìm môi sau khói súng/ Cảm ơn Đời, kinh thánh cuộc hành quân” (bài Nhớ ngày mai). Đọc đoạn thơ này, trước mắt ta như đang hiện lên một trường đoạn trong tiểu thuyết Một thời để yêu, một thời để chết của nhà văn Đức Erich Maria Remarque vậy.
Có thể nói, Hoàng Nhuận Cầm là nhà thơ của những trạng huống xao xuyến, bâng khuâng… rất khó biểu đạt. Thơ anh giàu nhạc tính, có sức ngân vang. Với anh, ngoài phần hình ảnh (là phần mà anh có nhiều tìm tòi) thì nhạc giữ một vai trò quan trọng, tạo nên sức nặng và sức chinh phục. Điều này lý giải tại sao, trong nhiều chương trình thơ, Hoàng Nhuận Cầm thường thích trực tiếp đọc thơ mình chứ ít chịu để người khác… ngâm vịnh. Mà quả thật, với lối ngâm nga tẻ nhạt như một số người hiện nay vẫn làm, tức là bài nào họ cũng “phổ” cho một “điệu nhạc” có sẵn, thì sẽ ra sao một bài thơ như “Năm nốt bâng quơ trên một cây đàn”, nhất là ở những khúc 3,4,5, những khúc mà tác giả dụng công bố trí toàn thanh bằng ở cuối câu, tạo nên một âm hưởng ngân nga, hoài niệm? 
Một điều đáng nói nữa, trong sự nâng lên, đặt xuống của nhịp điệu từng khổ thơ, Hoàng Nhuận Cầm rất chú ý lựa chọn… điểm rơi của ý tưởng. Nói một cách hình tượng thì nếu ví một khổ thơ như một cánh tay, thì khi cánh tay ấy hạ xuống cũng là lúc nó phải để lộ ra một món quà bất ngờ ẩn giấu trong đó. Những câu kết của bài Tốt hơn, đừng chết là những câu như thế: “Nếu tôi chết, hãy tìm tôi nhé/ Một tối nào như tối mùa Đông/ Chiều thứ bảy quán cà phê vắng/ Chủ quán buồn, hỏi: Có buồn không?”. Chao ơi, chiều thứ bảy, quán vắng, đã buồn rồi, chủ quán còn hỏi khách “Có buồn không?” thì cô đơn quá… Câu thơ nằm trong một bài thơ có giọng điệu hơi hài hước, song vẫn bâng khuâng thế sự.
Ở trên, tôi có nhắc tới một bài thơ Hoàng Nhuận Cầm viết về chủ đề cái chết. Trong thơ Hoàng Nhuận Cầm, số bài đề cập tới chủ đề thuộc diện “nhạy cảm” này khá nhiều, nhiều tới độ ở bìa cuối tập thơ Xúc xắc mùa thu, tác giả phải cho in tấm ảnh hồi anh chưa đầy tuổi, đang nằm…chỏng “cần câu” trên một chiếc chiếu với mục đích “giải hạn”, lấy sự sinh đối chọi với sự chết. Cũng vậy, ngoài bài Thêm một vì sao (viết về cái chết), Hoàng Nhuận Cầm còn viết thêm bài Tốt hơn đừng chết, với câu cuối có chữ “phục sinh”: “Ai đã phục sinh Em... trong những tối không chồng” cũng là với mục đích để… giải hạn. Sinh thời, nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nazim Hitkmet từng tâm sự rằng, với ông, cuốn sách lớn nhất chính là cuốn sách hướng về cái chết. Những bài thơ viết về cái chết cũng là một mảng sáng tác đặc sắc của Hoàng Nhuận Cầm. Qua đó, anh vừa thể hiện được nét hào hoa trong hồn thơ của mình vừa thể hiện được sự tài hoa trong việc tung hứng, sử dụng ngôn từ:
Một mai chết thật âm thầm
Mấy cành cỏ dại khẽ trầm ngâm ru
Một mai chết hết hận thù
Mắt chầm chậm khép tay từ từ xuôi.

(Bài Một mai).
Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu từng viết rằng, ông thích thứ thơ để người ta yêu hơn là để người ta phục. Đọc thơ Hoàng Nhuận Cầm, về tài nghệ có bài tôi phục, rất phục, song phần lớn phải nói là đáng yêu. Và tôi nghĩ, đây cũng chính là một nét lớn của hầu hết các nhà thơ tên tuổi của chúng ta…
Trong một bài viết về thơ Hoàng Nhuận Cầm in trên Báo Hà Nội mới số ra ngày 22/11/1993, tôi đã từng nêu cảm tưởng, với Hoàng Nhuận Cầm “một chặng hành trình được gắn huân chương và bắt đầu khép lại”. Biết làm sao được, cái “tạng” của Hoàng Nhuận Cầm là vậy. Anh không thể viết xô bồ, ồ ạt. Thơ anh là “sự trong trẻo khó giữ, là cái đẹp mảnh mai không trường sức”. Đến nay, gần 20 năm trôi qua, tôi thấy ý kiến của tôi đã được chứng minh trên thực tế…


Xem tiếp


Khi mùa thu sang


 Tác giả: Trần Đăng Khoa

Mặt trời lặn xuống bờ ao
Ngọn khói xanh lên, lúng liếng
Vườn sau gió chẳng đuổi nhau
Lá vẫn bay vàng sân giếng

Xóm ngoài, nhà ai giã cốm
Làn sương lam mỏng, rung rinh
Em nhỏ cưỡi trâu về ngõ
Tự  mình làm nên bức tranh

Rào thưa, tiếng ai cười gọi
Trông ra nào thấy đâu nào
Một khoảng trời trong leo lẻo
Thình lình hiện lên ngôi sao

Những muốn kêu to một tiếng
Thu sang rồi đấy! Thu sang!
Lòng bỗng nhớ ông Nguyễn Khuyến
Cõng cháu chạy rông khắp làng…


Xem tiếp


 

Khách ghé thăm

Flag Counter

Tìm kiếm trên sexanh.com

© 2010. Góp ý bài viết: comment trên trang Sẻ Xanh.com. Góp ý khác gửi mail cho Sẻ Xanh