Nét đời thường rất Huế


(Sẻ Xanh) - Nhìn Huế với vẻ giản dị đời thường dễ khiến du khách có cảm giác mình đã chạm tay được vào nét mê đắm, huyền hoặc của đất cố đô thanh tú, để rồi mãi cũng không thể quên một sắc Huế dịu dàng…
Không cầu kỳ, không hiện đại, không có những tòa nhà cao tầng như những thành phố hiện đại, Huế từ lâu đã được xem là một trong những thành phố cổ kính bởi nét trầm lắng, thanh tú và thơ mộng. Hiếm có nơi nào lại hội tụ đầy đủ vẻ đẹp tinh khiết, hài hòa như Huế. Sông núi, cảnh vật, đền đài, lăng tẩm… tất cả được tạo hóa và bàn tay con người  tạo lập để tôn thêm vẻ hoàn mỹ, liên hoàn làm thành nét riêng rất Huế.

Bởi lẽ vì thế mà Huế được du khách nước ngoài ví như nàng thiếu nữ e ấp trong tà áo dài màu tím biếc với nụ cười duyên dáng làm say đắm lòng người. Không chỉ bởi cảnh vật và thiên nhiên đằm thắm, Huế còn rất đỗi quen thuộc theo một góc nhìn khác đi với vai trò một danh lam thắng cảnh, một điểm dừng chân của bất kỳ lãng khách nào. Từ xa lạ, Huế sẽ khiến người ta luôn tin rằng: đó hẳn là một nơi để trở về vì những gì thân thương và gần gũi nhất.

Trên những con đường cắt chéo nhau dẫn lối về những khoảng Huế xanh mướt, ngồi một góc quán café thân thuộc mà ngắm nhìn Thành cổ, ngắm nhìn ánh mặt trời lừng lững đổ xuống những bóng người đi lại thênh thang giữa đất và trời. Khung cảnh nên thơ ấy khiến người ta liên tưởng đến con đường được gọi với cái tên đầy lưu luyến đã từng in dấu bước chân người nghệ sỹ đa cảm: Đường Phượng bay: “Em đi về cầu mưa ướt áo/ Đường phượng bay mù không lối vào/ Hàng cây lá xanh gần với nhau”.

Đến Huế mà không một lần bước chân trên con đường dẫn lên chùa Thiên Mụ thì thật là thiếu sót. Người ta nói rằng đường lên chùa Thiên Mụ được trải đầy bằng những mảnh an nhiên đời thường, gió cứ thổi và những người lữ hành cứ tới, khoan thai, nhè nhẹ cất giấu chút ít mảnh hồn đa mang của chính mình và trở về với cõi Phật thinh không. Một không gian rộng lớn và thênh thang như vô tận ấy khiến cho Huế bỗng trở nên trầm mặc lạ thường. Bởi vì giữa trưa nắng trời Huế cứ trong ngắt một màu xanh, tựa như người con trai đầy vẻ cương nghị, rắn rỏi nhưng lại có nụ cười vô cùng trìu mến, có sức hấp dẫn khó mà cưỡng lại, khiến cho lữ khách nửa như muốn tránh nhưng lại như muốn lại gần. Trời Huế xanh một màu xanh lạ lùng, dưới trời Huế nụ cười của bất kỳ ai cũng trở nên rạng rỡ…

Xích lô cũng được coi như một “ đặc sản” nơi Huế. Xích lô Huế có sắc thái riêng. Màu sắc trang trí xe không lòe loẹt. Xe có độ cao đủ tầm để du khách có thể ngắm dòng sông Hương, đủ vừa cho đôi uyên ương không cảm thấy chống chếnh nhưng cũng lại không quá chật cho ai đó cảm thấy ngại ngùng mỗi lúc ngồi chung. Mùa đông, đi xích lô Huế cũng có cái thú riêng. Trong cơn mưa bụi lây rây, các bác lái xích lô bao giờ cũng cẩn thận kéo chiếc mui bạt lên, che cho khách khỏi ướt, thế nhưng cũng có người thích được đi mui trần cho những làn mưa mỏng như sương khói ấy phất nhẹ vào mặt, để tìm cái cảm giác tê tái của đất trời lúc chớm đông.

Huế đẹp còn ở màu sắc đa dạng của nó. Hình như cảnh vật ở đây đã làm cho màu sắc Huế luôn thay đổi. Màu diệp lục của cây trái, màu sáng của bầu trời, màu xanh của sông, màu u tịch của thành quách, màu ráng chiều từ núi Kim Phụng lan tỏa… đã tạo cho Huế một gam màu đặc biệt và luôn thay đổi theo thời khắc. Và ở đó, màu tím được hội tụ, tôn lên thành biểu trưng, thành định ngữ và đã đi vào văn học nghệ thuật như một sở hữu: Màu tím Huế.
Huế cũng là xứ sở của chùa chiền. Không nơi đâu lại nhiều chùa như ở Huế. Chùa nằm ở mọi nơi: trên núi đồi, trong thung lũng, giữa lòng thành phố… Tất cả đều thánh thiện và mầu nhiệm trong sự hòa hợp, tương giao với cuộc sống trần thế. Người Huế gắn với đạo Phật như một sinh hoạt văn hóa tâm linh trong đức tin nhân ái, từ bi. Tiếng chuông chùa ở đây hình như cũng trở thành âm thanh huyền diệu, lay động tâm thức con người, nhắc họ hướng về những ước mơ Chân – Thiện – Mỹ.

Bản thân Huế có một thứ phục sức mà chỉ khi nằm vùng trong nó chúng ta mới có thể thấy và cảm được. Những lãng khách tài tử vẫn thường gọi “mưa” là đặc sản của Huế, thứ đặc sản nhẹ nhàng tấu lên khúc dạo đầu. Những đám mây hồng được trời ươm nắng, long lanh, kiêu hãnh soi mình bên dòng Hương xanh thẳm. Màu tím loang trên mặt nước buổi chiều ấy vẫn còn đọng ở võng mạc, bất chợt chiều nay ra phố về bỗng thấy đời mình là những chuyến xe. Như quá quen và đầy chất thơ, thiếu nữ bình thản mang trên vai, thấm ướt làn tóc rối, mong manh, hao gầy. Còn các nghệ sĩ, họ vật vã cảm hoài trong không gian chợt vụt, thấp thoáng hiện mất sắc tím giữa trời chiều. Mưa Huế lắm nỗi niềm và suy tưởng. Nhiều khi trống trải tới mức người đa mang, giàu xúc cảm, ôm mộng tưởng thu tím thiếu lá vàng như hoa xuân thiếu bướm lượn, có ai đó thẫn thờ chiều hoang biền biệt.

Những cảm giác mà du khách có được khi nhìn Huế với vẻ giản dị đời thường sẽ rất khác với một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đó là một góc nhìn chênh chếch và riêng có, nó khiến người ta thấy rằng mình đã chạm tay vào Huế thì cả một đời cũng không quên được. Bởi vì ký ức về Huế cứ lớn dần lên như một thứ tình yêu không vị kỷ, như một thiếu nữ mới yêu lần đầu, và từ đó yêu Huế đến không ngờ. Huế của Việt Nam, đẹp và thân thương lạ thường.


Xem tiếp


Lang Biang - vẻ đẹp tuyệt mỹ


(Sẻ Xanh) - Với vẻ đẹp hùng vĩ và hoang sơ, đầy sức quyến rũ, 10 năm trước, Lang Biang đã được công nhận là di tích thắng cảnh Quốc gia.


Từ đó đến nay, các hoạt động du lịch ở đây đã giúp cho hàng triệu du khách được tận hưởng phong cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ của miền sơn cước.

Chỉ ra khỏi trung tâm Đà Lạt 12 km về phía Bắc, du khách đã đặt chân vào Khu Du lịch (KDL) Lang Biang - một vùng rừng nguyên sinh rộng 971 ha. Tại đây họ có nhiều lựa chọn cho chuyến du ngoạn của mình.

Núi Lang Biang.

Du khách nước ngoài, thanh niên, sinh viên đi theo nhóm thường chọn con đường mòn nhỏ, quanh co, cây rừng chằng chịt, nhiều đoạn dốc thẳng đứng để chinh phục đỉnh Lang Biang. Điều kỳ thú của con đường này là ở mỗi độ cao khác nhau, thảm thực vật cũng thay đổi theo.

Du khách có thể bắt gặp nhiều loài cây lâu năm như chò sót, chò nước, pơmu, thông năng, thông chàm, thông 5 lá (đây là loại cây rất hiếm, chỉ có ở núi cao như Lang Bian), ngo tùng, thông hai lá dẹt (là loại thông quý hiếm trên thế giới, thân có thể lớn 4 m, cao trên 20 m). Bên cạnh đó còn có dổi, long não, thông tre, thông lông gà…

Giữa bạt ngàn rừng thông ba lá, du khách có thể phát hiện một số loại cây thuốc quý như: Đại bi, nam sâm, ngưu tất nam, bổ cốt toái, hoàng liên ô rô… Đi theo con đường này, du khách chắc chắn sẽ được thưởng ngoạn lan rừng, bởi ở đây có hơn 300 loài lan như: Thanh lan, hoàng lan, hồng lan, vân hài, bạch phượng, tuyết ngọc, mắt trúc, bạch nhạn, lan sứa, lá gấm…

Nếu may mắn, du khách có thể bắt gặp các loài chim quý hiếm chỉ có ở Lang Biang như Yersingist, Langbiangist; hay các loài thú quý hiếm như: Nai xám, nai cà tong, hươu vàng, sóc bay, sóc vằn, gấu chó, chồn dơi, khỉ, vượn đen, trĩ sao, gà lôi hông tía…

Du ngoạn Lang Biang bằng con đường mòn rất thú vị, nhưng rất vất vả, nên chỉ phù hợp với giới trẻ, hoặc những người có sức khỏe. Vì vậy, phần lớn du khách chọn cách chinh phục đỉnh Lang Biang cùng đội xe “dã chiến” là những chiếc Uaz màu xanh của KDL Lang Biang, đi lên con đường trải nhựa dài 6 km, từ chân núi đi ngoằn ngoèo, quanh co trong rừng thông.

Bản thân con đường cũng mang vẻ đẹp khôn tả bởi những màn sương huyền ảo che phủ khiến những tán thông và cây rừng lúc ẩn, lúc hiện; các loài hoa không tên bám vào vách đá bên dòng suối trong ngần cùng những làn gió mơn man và trong lành…

Trên đỉnh núi, trong không khí se lạnh của hoàng hôn sơn cước, nhiều du khách bảo rằng, họ đã lặng người trước vẻ đẹp của những dãy núi nhấp nhô, nối tiếp nhau như những đợt sóng lớn xa tít tắp về phía bắc; dưới chân núi, hồ Đan Kia - Suối Vàng hiện ra đẹp như bức tranh thủy mặc ở phía tây; hướng nam là buôn làng người Lạch, người Cill – những con người đang gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống Nam Tây Nguyên.

Trên đỉnh núi có hình tượng đôi tình nhân đang bay lượn như kể lại câu chuyện tình yêu tạo nên truyền thuyết Lang Biang. Đó là mối tình say đắm của nàng Lang – người dân tộc Cill và chàng Biang – người dân tộc Lạch. Họ yêu nhau, nhưng do tập tục khắt khe của hai tộc người nên nàng Lang không bắt được Biang làm chồng. Họ nguyện bảo vệ tình yêu, mãi mãi không chia lìa bằng cách chết bên nhau.

Ngưỡng mộ và thương cảm trước tình yêu chung thủy và say đắm của đôi trai gái này, các loài chim, thú, cây, cỏ đã bảo nhau xây đắp dần thành hai nấm mộ cho nàng Lang và chàng Biang. Lâu dần thành ngọn núi với hai đỉnh vượt cao vững chãi giữa trời xanh gọi là đỉnh núi Lang Biang…

Ngày nay, dưới chân núi Lang Biang, buôn làng của người Cill, người Lạch đã trở thành điểm đến kỳ thú để khám phá những giá trị văn hóa bản địa.

Hàng ngàn lượt du khách đã đến đây thưởng ngoạn không gian văn hóa cồng chiêng, xem những người phụ nữ dệt thổ cẩm, lựa chọn những món quà lưu niệm, thưởng thức rượu cần và thịt nướng… Các cô sơn nữ ngày ngày lên rẫy, nhưng đêm về hóa thân vào các điệu múa mà từ khi sinh ra lời ca, điệu nhạc đã thấm vào da thịt. Nam giới cũng biết đánh đồng la, thổi khèn bầu, tù và và sử dụng các nhạc cụ bằng lồ ô, tre, gỗ…

Do nhu cầu tìm hiểu văn hóa bản địa của du khách, tại đây đã hình thành Câu lạc bộ cồng chiêng gồm 10 đội tổ chức biểu diễn phục vụ du khách vào ban đêm. Khi du khách yêu cầu, họ tổ chức đốt lửa trại, diễn tấu cồng chiêng và các nhạc cụ dân tộc; múa, hát các nhạc phẩm riêng của dân tộc mình về phong tục, tập quán cổ xưa của tổ tiên…

Bên bếp lửa bập bùng, nhiều du khách lần đầu tiên được hút rượu cần nồng nàn hương vị lúa mẹ với món đặc sản heo tộc nướng, nghe những câu chuyện về truyền thuyết của dân tộc Lạch, về núi Lang Bian, về suối Đankia, suối Tía…

Càng về khuya, âm thanh của đồng la như trỗi dậy trong bản nhạc rộn rã, tha thiết, mời gọi. Những bản đồng la đối đáp nhau, đuổi theo nhau, ngân nga, dồn dập, sôi nổi, vang dội, âm thanh dẫn dắt ta vào một cõi thần tiên trong những cánh rừng xa tít tắp dưới chân Trường Sơn Nam…

Đinh Thị Nga


Xem tiếp


10 địa danh "rồng" nổi tiếng nhất Việt Nam


(SeXanh) – Đối với người Việt rồng là hình tượng thiêng liêng và khá quen thuộc cách đây hàng ngàn năm, cho nên trãi khắp đất nước có khá nhiều địa danh mang tên Rồng dưới tên Hán Việt hoặc tên Nôm, dưới đây là 10 “địa danh Rồng” tiêu biểu nhất Việt Nam.

1. Thăng Long



Thăng Long là tên gọi của Hà Nội từ năm 1010-1788. Theo sử sách ghi lại vào năm 1010 vua Lý Công Uẩn đã cho dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi là thành Thăng Long, có nghĩa là nơi rồng bay lên, với mong muốn đất nước được thái bình, thịnh trị. Hiện tên gọi Thăng Long đã không còn nữa nhưng đối với mảnh đất kinh kỳ này danh từ Thăng Long vẫn luôn là niềm tự hào, năm 2010 một lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đã được tổ chức hoành tráng để tôn vinh những giá trị văn hóa ngàn năm qua.

2. Sông Cửu Long



Là tên gọi của vùng hạ lưu sông Mê Kông, nơi 9 nhánh sông chảy qua lãnh thổ nước ta trước khi đổ ra biển. Ngày nay vùng đồng bằng sông Cửu Long được xem là vựa lúa lớn nhất cả nước hàng năm đóng góp gần 80% sản lượng lúa xuất khẩu cả nước. Ngoài ra đây còn là vùng có tiềm năng phát triển du lịch, nơi có một nền văn hóa phong phú, đa dạng cũng là nơi sinh sống của cả 3 cộng đồng người Việt, Hoa, Khơ me.

3. Vịnh Hạ Long



Vịnh Hạ Long thuộc thị xã Cẩm Phả, Quảng Ninh, là một di sản thiên nhiên thế giới đã được Unesco công nhận, và vừa qua còn được bình chọn là 1 trong 10 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Tên Hạ Long bắt nguồn từ truyền thuyết Ngọc Hoàng sai Rồng mẹ đãn theo đàn con xuống hạ giới giúp người Việt chống giặc ngoại xâm, sau khi chiến thắng đàn Rồng đã không về trời mà ở lại đây, nơi vừa đánh thắng giặc, nơi Rồng hạ xuống ngày nay là Vịnh Hạ Long.

4. Vịnh Bái Tử Long



Cũng theo truyền thuyết trên nơi đàn rồng con xuống Hạ giới là vịnh Bái Tử Long. Đây cũng Là một phần trong quần thể di sản vịnh Hạ Long, nơi có những hòn đảo xinh đẹp có bãi cát dài trắng xóa, Vịnh Bái Tử Long ngày càng thu hút khách nước ngoài đến thăm quan, nghỉ dưỡng.

5. Bạch Long Vĩ



Bạch Long Vĩ cũng thuộc địa phận Quảng Ninh. Đây là một hòn đảo có vị trí quan trọng trong việc mở rộng các vùng biển và phân định biển Vịnh Bắc Bộ. Ngoài ra, đảo còn nằm trên một ngư trường lớn với sản lượng tôm cá dồi dào, và có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, an ninh – quốc phòng biển của Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ.

6. Cầu Long Biên



Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, là một trong những công trình biểu tượng của thủ đô, cây cầu này được xây dựng 1899-1902 bởi người Pháp và người thiết kế nó cũng chính là kỹ sư đã thiết kế tháp Eiffel ở Paris. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cầu nhiều lần đã bị hủy hoại nặng nề. Hiện tại, cầu Long Biên chỉ sử dụng cho tàu hỏa, xe đạp, xe máy và người đi bộ.

7. Bến Nhà Rồng



Bến nhà Rồng là một địa danh lịch sử, nơi đây vào năm 1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình ra đi tìm đường cứu nước. Tên gọi bến Nhà Rồng có nguồn gốc từ hình tượng hai con rồng châu đầu vào mặt trăng, một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam, được gắn trên nóc tòa nhà trụ sở thương cảng. Ngày nay tòa nhà này là Bảo tàng nơi trưng bày chủ yếu những hình tư liệu về chủ tịch Hồ Chí Minh.

8. Cầu Hàm Rồng



Bắc qua sông Mã, thuộc tỉnh Thanh Hoá, cầu Hàm Rồng là cây cầu nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam. Câu cầu nguyên gốc do Pháp xây dựng năm 1904, Từ 1962-1964 cầu Hàm Rồng được xây dựng lại, những năm 1972 cầu tiếp tục bị hư hại do bôm Mỹ, sau lại được khôi phục.

9. Núi Hàm Rồng



Hàm Rồng cũng là tên của một ngọn núi nổi tiếng nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, vì dãy núi mang dáng vẽ của một chiếc đầu rồng nên có tên như thế. Nằm cách thị trấn du lịch Sa Pa (Lào Cai) không xa, núi Hàm Rồng đã trở thành một điểm đến được nhiều du khách ưa thích với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, khí hậu mát mẻ, trong lành.

10. Biển Long Hải



Nằm ở địa phận thị trấn Long Hải, Vũng Tàu. Long Hải được nhiều người biết đến với những bãi tắm trải dài, nước biển xanh trong, những khu nghỉ mát lý tưởng, khung cảnh nên thơ của vùng biển gắn với những dãy núi uốn lượn vùng vỹ tạo nên một quan cảnh nên thơ, tráng lệ, thu hút khá đông du khách trong những ngày hè nóng nực.


Xem tiếp


Du lịch Thanh Hóa: Vườn Quốc gia Bến En


(Sẻ Xanh) - Vườn quốc gia Bến En thuộc địa phận huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hoá 36km về phía tây nam.


Đặc điểm: Tổng diện tích rừng tự nhiên là 16.634 ha, trong đó diện tích rừng nguyên sinh là 8.544 ha với một quần thể nhiều núi non, sông suối, vùng hồ trên núi với nhiều tên gọi và huyền tích về các địa danh.


Vườn quốc gia Bến En có nhiều sinh vật quí. Tại đây có tới 462 loài cây thuộc 125 họ thực vật, gồm những giống loài quí như lim xanh, lát hoa, chò chỉ, trai lý, bù hương… Có các loại thú quí hiếm như sói đỏ, gấu ngựa, vượn đen, phượng hoàng đất, gà tiền mặt vàng…

Phong cảnh của vườn quốc gia Bến En đầy thơ mộng. Hồ sông Mực rộng 3.000 ha với hơn 20 hòn đảo lớn nhỏ. Nhiều hang động nhũ đá lung linh huyền ảo.

Đến với vườn quốc gia Bến En, du khách có dịp tìm hiểu, nghiên cứu về các loài động thực vật quí hiếm ở đây, sống giữa rừng đại ngàn nghe chim kêu vượn hú thâu đêm, nướng cá bên khe suối… thật thú vị. Trong tương lai Bến En sẽ trở thành một khu du lịch rất hấp dẫn.


Xem tiếp


Du lịch Thanh Hóa


(Sẻ Xanh) - Khái quát chung về Thanh Hóa

Diện tích: 11.133,4 km²
Dân số: 3.406,8 nghìn người (2010)
Tỉnh lỵ: Thành phố Thanh Hóa
Các huyện, thị:
- Thị xã: Sầm Sơn, Bỉm Sơn
- Huyện: Mường Lát, Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Thạch Thành, Ngọc Lạc, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh, Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Yên Định, Thọ Xuân, Hậu Lộc, Thiệu Hóa, Hoằng Hóa, Đông Sơn, Triệu Sơn, Quảng Xương, Nông Cống, Tĩnh Gia.
Dân tộc: Việt (Kinh), Mường, Thái, H’Mông, Thổ…

 

Điều kiện tự nhiên

Thanh Hoá là một trong những tỉnh lớn của Việt Nam, nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ. Phía bắc Thanh Hóa giáp tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình; phía nam giáp Nghệ An; phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp Lào. Địa hình tương đối phức tạp, đa dạng, thấp dần từ tây sang đông gồm có vùng núi, trung du, đồng bằng, vùng ven biển.

Khí hậu của tỉnh thuộc vùng chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ, nhiệt độ trung bình năm khoảng 23ºC – 24ºC. Nằm ở độ cao không lớn lại nằm kề biển nên mùa đông ở đây không lạnh lắm, mùa hè dịu mát hơn.

Tiềm năng phát triển kinh tế và du lịch

Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng du lịch rất lớn và có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách. Bờ biển dài trên 100km với nhiều bãi biển đẹp mà nổi tiếng nhất là Sầm Sơn. Ðây là bãi biển phẳng, nước xanh như ngọc tràn ngập ánh nắng với nhiều điểm du lịch phụ cận như đền Ðộc Cước, hòn Trống Mái, chùa Cô Tiên, khu đầm lầy nước mặn Quảng Cư, Quảng Tiên có nhiều chim thú, cây cỏ và hải sản. Hàng năm có hàng triệu du khách tới Sầm Sơn để tắm biển và nghỉ ngơi.

Huyện Nga Sơn sát tỉnh Ninh Bình có động Từ Thức, theo truyền thuyết là nơi Từ Thức gặp tiên. Ðộng có rất nhiều điều kỳ thú do thiên nhiên tạo ra như Ðường lên trời, Kho gạo, Kho khỉ, Chuông… Vườn quốc gia Bến En giáp tỉnh Nghệ An có phong cảnh núi hồ đẹp cùng những cây cổ thụ hàng ngàn tuổi và nhiều động vật quý hiếm.

Ðối với những du khách say mê lịch sử không thể bỏ qua di tích thành nhà Hồ mà kiến trúc của nó làm người ta liên tưởng tới những thành đá ở Ý và Hy Lạp, các di vật của người Việt cổ (Núi Ðọ, Ðông Sơn), khu di tích Lam Kinh. Ngoài ra tới đây du khách sẽ được thưởng thức chiêm ngưỡng những di sản văn hoá Việt Nam bao gồm các trò chơi dân gian, các làn điệu xứ Thanh, các lễ hội và nhiều hoạt động văn hoá khác. Chắc chắn Thanh Hóa sẽ là điểm dừng chân không thể bỏ qua đối với nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.

Giao thông

Giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy đều thuận lợi. Thành phố Thanh Hóa nằm trên trục đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam dài, cách Hà Nội khoảng 153km, cách Ninh Bình khoảng 62km. Tỉnh nằm trong trục đường quốc lộ 15 đoạn Hòa Bình – Thanh Hóa – Nghệ An và có quốc lộ 217 đi sang nước bạn Lào.


Xem tiếp


 

Khách ghé thăm

Flag Counter

Tìm kiếm trên sexanh.com

© 2010. Góp ý bài viết: comment trên trang Sẻ Xanh.com. Góp ý khác gửi mail cho Sẻ Xanh