Ngoài ra, cuốn Không Lộ thiền sư ký ngữ lục bằng chữ Hán, không rõ tác giả và viết từ thời nào, hiện đang lưu giữ tại chùa Keo làng Dũng Nhuệ chép: “Vị thiền sư Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang tại Hải Thanh, là người Hải Thanh, họ Dương, húy là Minh Không thiền sư, theo nghiệp nhà làm nghề chài lưới… Về sau sư bỏ nghề đi tu theo phái Đà La Môn. Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ nhất (1059), sư cùng bạn là Giác Hải ra ngoài nước. Lúc đầu sư theo học cư sĩ Bảo Tài Ngô Xá rồi sau theo học thiền sư Thảo Đường và đắc đạo. Thiền sư Thảo Đường truyền thụ cho giáo lý của phái Tuyết Đậu Minh Giác”.
Lễ hội đền Bà Vũ - nhớ "Người con gái Nam Xương"
(Sẻ Xanh) - Ngày 4/10, tại đền Bà Vũ, thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam,
huyện Lý Nhân đã tổ chức lễ hội đền Bà Vũ năm 2012.
Đền Bà vũ thuộc thôn Vũ Điện, xã Chân Lý thờ bà Vũ Thị Thiết - "Người con gái Nam Xương" được Nguyễn Dữ chép trong "Truyền Kỳ Mạn Lục" vào thế kỷ thứ XVI. Đây là một trong những di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia tiêu biểu của tỉnh Hà Nam.
Lễ hội Đền Bà Vũ được tổ chức trong không khí trang nghiêm, mở đầu bằng màn rước nước và rước kiệu từ sông Hồng vào Đền, diễn ra từ sáng sớm. Tiếp đó là các màn đọc văn trình khai mạc lễ hội, tuyên đọc 6 bài thơ nói về Bà Vũ, trình diễn các điệu múa dân gian đặc sắc.
Truyền rằng, vào thế kỷ XV, ở trang Vũ Điện, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân có vợ chồng ông Vũ Thận và bà Nguyễn Thị Phiên ăn ở rất nhân từ. Ông bà có 4 người con, trong đó có cô con gái út đặt tên là Vũ Thị Thiết, hiệu là Nương Hương. Nương Hương là người học giỏi, thấu hiểu kinh sử, làm thơ rất hay.
Đến năm 19 tuổi, quê nhà bị mất mùa, nạn đói xảy ra khắp nơi, Nương Hương bàn với các anh đem của cải giúp người già yếu, được dân làng hết lời ca ngợi. Nương Hương lấy chồng tên là Trương Huyền, cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Huyền phải đi lính, để lại người vợ bụng mang dạ chửa. Một năm sau Vũ Thị Thiết sinh được một người con trai, nàng một mình nuôi con, phụng dưỡng bố mẹ chồng rất chu đáo.
Đêm đêm mẹ con ngồi bên bóng đèn, nhìn bóng mình in trên vách, Vũ Thị Thiết thường nói với con đấy là bổ đẻ để yên lòng con trẻ. Sau 3 năm, Trương Huyền hết hạn binh dịch trở về thì cha mẹ đều đã qua đời. Trương Huyền bế con nhưng đứa bé nhất định không chịu nói "Ông không phải bố tôi, bố tôi tối mới về." Nghe thấy thế, Trương Huyền hết mực ngờ vực và mắng nhiếc vợ mình. Vũ Thị Thiết khóc lóc phân trần nhưng chồng không tin, quá đau khổ nàng đã gieo mình xuống sông tự vẫn. Nhân dân thương nhớ người con gái trung hậu mà cuộc đời chịu nhiều nỗi đắng cay nên đã dựng miếu thờ nàng bên sông để hương khói phụng thờ.
Lễ hội đền Bà Vũ được tổ chức hàng năm, diễn ra trong các ngày 19 đến 21/8 âm lịch để tưởng niệm ngày mất của bà vào ngày 20/8 âm lịch. Đây cũng là dịp để dân làng tạ ơn thần, phật, cầu cho "Quốc thái dân an, nhân khang, vật thịnh". Dự lễ hội, du khách thập phương còn được tham dự các trò chơi dân gian truyền thống như kéo co, cờ người, leo cầu kiều, bắt vịt ở ao đền, bịt mắt đập niêu./.
Đức Phương

Độc đáo lễ hội cầu Trăng của dân tộc Tày Hà Giang
Bà con dân tộc Tày quan niệm trên cung Trăng có mẹ Trăng và 12 nàng tiên (con gái của mẹ). Mẹ Trăng cùng 12 nàng tiên là những người luôn chăm lo, bảo vệ mùa màng cho muôn dân.
Từ bao đời nay, với lễ hội dân gian mang đậm màu sắc tâm linh này, đồng bào Tày ở thôn Bản Loan thường duy trì tổ chức với ý nghĩa đón mẹ Trăng và các nàng tiên xuống vui Tết Trung Thu. Mẹ Trăng ban phước lành cho dân bản, cầu cho mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa, cuộc sống trong bản luôn bình an và gặp nhiều may mắn.
Được tổ chức vào đúng ngày Rằm tháng Tám (Tết Trung Thu), Lễ hội cầu Trăng có hai phần lễ và hội. Phần lễ thường được tổ chức vào tối 14/8 âm lịch trên một bãi đất rộng với các nghi thức "cúng thổ công chúa bản" tại ngôi miếu chung để xin phép cho dân bản được tổ chức lễ hội cầu Trăng vào đêm hôm sau.
Ngày lễ này là ngày vui nhất của bà con dân tộc Tày nơi đây. Bà con dân bản từ già, trẻ, gái, trai đều đến tham gia đông đủ, họ dâng các sản vật, khấn mời mẹ Trăng xuống hạ giới nghe những tâm tư, tình cảm của người dân sau một năm siêng năng làm lụng.
Lễ vật gồm thịt, rượu, các loại bánh, xôi nhuộm ngũ sắc. Sau khi thực hiện xong nghi lễ trình báo mẹ Trăng và 12 nàng tiên, già làng tiến hành các nghi lễ cầu phúc, cầu may, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi; mời mẹ Trăng và các nàng tiên về ban mùa màng và phước lành cho dân bản.
Đêm hôm sau, đúng vào ngày Rằm tháng Tám, khi mẹ Trăng lên khỏi đỉnh núi và bắt đầu tỏa sáng xuống bản làng, tất cả bà con tập trung ở sân. Lúc này thầy cúng tiến hành cúng thổ công và các thần linh, các nghệ nhân cúng tế múa vòng quanh giàn cúng khi khai hội đón Trăng.
Sau khi đã làm lễ cầu mẹ Trăng và các nàng tiên ban cho các cây, con giống tốt, gặp nhiều điều kiện thuận lợi trong gieo trồng, sản xuất chăn nuôi, tất cả bà con trong bản quây quần uống rượu, múa hát quanh xung bàn lễ. Trai gái đều mặc những trang phục đẹp nhất, nhất là các cô gái trở nên xinh đẹp nổi bật với những trang sức bằng vòng tay, vòng cổ và xà tích bằng bạc. Họ say sưa hát những làn điệu dân ca, tiếng hát cọi, hát yếu... chan chứa tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi hạnh phúc lứa đôi.
Khi đến với lễ hội cầu Trăng, không chỉ được nghe hát những làn điệu dân ca, các trò chơi dân gian, du khách còn được thưởng thức các món ẩm thực truyền thống của bà con dân tộc Tày như cơm lam, các món rau rừng, mắm thịt lợn, mắm cá chép ruộng, trám muối, xôi ngũ sắc, măng chua, trám đen chấm với muối vừng.
Lễ hội cầu Trăng là ngày hội vui nhất của người Tày, trong những ngày này những người già gặp nhau hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện phát triển sản xuất, chăn nuôi. Với thanh niên, đây là ngày hội để các chàng trai, cô gái gặp gỡ trao duyên. Các trẻ em được rước đèn ông sao, vui chơi, phá cỗ dưới ánh Trăng Rằm.
Đêm hội cầu Trăng kết thúc khi mẹ Trăng lên giữa đỉnh đầu, cả bản lưu luyến làm lễ tiễn mẹ Trăng về trời, sau đó họ lại tiếp tục ngân nga trong câu hát then, hát cọi đầy sức lôi cuốn lòng người.
Kết thúc buổi lễ, già làng sẽ phát các hạt giống cho con cháu, cầu cho tất cả bà con trong bản một vụ mùa gieo trồng thuận lợi, mùa màng bội thu, dân bản no ấm.
Thông qua việc tổ chức lễ hội cầu Trăng, bà con dân tộc Tày còn truyền dạy cho con cháu của mình lòng tự hào, gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc của dân tộc./.

Lễ hội Văn hóa Trà tại Đà Lạt năm 2012 hứa hẹn nhiếu hấp dẫn
Tận mắt chiêm ngưỡng cách pha nhiều loại trà nổi tiếng khác nhau của người Việt, được thưởng thức miễn phí hương vị trà Bảo Lộc – Lâm Đồng và nhiều loại trà của mọi miền đất nước là một trải nghiệm mà du khách sẽ rất thích thú.
Đây cũng là dịp mà du khách tham quan các danh thắng của Đà lạt như: Thác Damb’ri - một trong những thác đẹp và hùng vĩ nhất của Lâm Đồng, Thiền viện Trúc Lâm, hồ Tuyền Lâm, dinh Bảo Đại, thung lũng tình yêu, chinh phục đỉnh núi Lang Biang, ngắm toàn cảnh Đà Lạt từ độ cao trên 1.600m ... hay cuồng nhiệt cùng chương trình "Hip hop - Nhịp điệu xanh” với sự trình diễn của 20 nhóm Hip hop đến từ các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước. Nếu là người yêu hoa, bạn sẽ ngẩn ngơ với triển lãm "Hoa địa lan Đà Lạt” tại vườn hoa thành phố, chỉ có trong dịp lễ hội.
Lễ hội diễn ra đúng dịp Noel, nên tối ngày 24/12/2012, du khách sẽ được hòa mình vào không khí se lạnh, chào đón Noel cùng người dân Đà Lạt với nhiều chương trình hấp dẫn: đêm hội "Lung linh mùa đông Đà Lạt”, các tiết mục múa "Chào Đà Lạt” do 200 diễn viên tham gia liên hoan Hip hop cùng biểu diễn, tiết mục "Thắp nến cho tình yêu” với khoảng 2.000 người tham dự, tiết mục "Vũ khúc ông già Noel” với sự xuất hiện của 200 ông già Noel tặng quà cho trẻ em; và cuối cùng là tiết mục "Dạ vũ mùa đông” với khoảng 1.000 đôi bạn tham dự.
“Tuần Văn hóa Trà Lâm Đồng – 2012” sẽ diễn ra từ ngày 21/12 đến hết 28/12/2012, với không gian lễ hội: Thành phố Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt và các địa phương huyện Bảo Lâm, huyện Di Linh…

Rộn ràng lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên
(SeXanh)
– Người dân huyện Văn Lâm, Hưng Yên đã tưng bừng tổ chức lễ hội cầu
mưa. Cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa để người dân có mùa
màng bội thu cuộc sống được ấm no hạnh phúc.
Tương truyền rằng, cứ mỗi khi trời hạn hán thì người dân nơi đây lại
làm lễ cầu mưa; vì vậy lễ hội không được tổ chức thường xuyên hàng năm.
Đến năm 2005 trở lại đây lễ hội cầu mưa mới thực sự trở thành ngày hội
vui nhất của người dân nơi đây. Trong ngày này, ngoài ý nghĩa tín ngưỡng
thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) tại đồng bằng Bắc
Bộ nó còn là dịp để gia đình quây quần xum họp, bàn chuyện làm ăn, phát
triển sản xuất, chăn nuôi, cày cấy…
“Lễ hội cầu mưa là một lễ hội tín ngưỡng phồn thực đã có từ lâu đời.
Nó thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên, cầu mong thế giới tự nhiên
ban phát cho công sức lao động của người dân sẽ có thành quả, đời đời
no ấm” Đại đức Thích Thanh Nguyên, Phó trưởng ban đại diện hội Phật giáo
huyện Văn Lâm, trụ trì chùa Pháp Điện, xã Lạc Hồng (Văn Lâm) cho biết.
Thông qua việc tổ chức lễ hội cầu mưa, người dân nơi đây còn truyền
dạy cho con cháu của mình tự hào, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền
thống, đậm đà bản sắc của dân tộc.

Tết Trung thu Việt Nam - Ý nghĩa và phong tục

Chợ Bến Thành
Nằm ở trung tâm thành phố. Chợ Bến Thành ngày nay có hình chữ nhật, trổ bốn cửa ra quảng trường Quách Thị Trang và các con đường: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế khi đến tham quan du lịch thành phố Hồ Chí Minh.
Trước khi Pháp xâm chiếm Sài Gòn năm 1859, có một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Từ xuất xứ ấy mà chợ đã mang tên ghép là Bến Thành. Chợ được xây bằng gạch, khung gỗ, lợp tranh. Năm 1870, chợ bị cháy một phần. Năm 1911, chợ cũ bị phá đi, chợ mới được xây khang trang rộng rãi hơn và hoàn thành vào tháng 3/1914.
Sau năm 1975, chợ Bến Thành lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước. Năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lại toàn bộ bên trong, bên ngoài, duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Hình ảnh chợ Bến Thành với tháp đồng hồ thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố.
Giờ đây chợ Bến Thành là một trung tâm buôn bán lớn không chỉ của TP Hồ Chí Minh mà còn của các tỉnh phía Nam.

Chợ nổi Cái Răng
Sáng sáng, hàng trăm chếc thuyền lớn bé đậu san sát. Bán sản vật gì người ta treo sản vật đó (treo bẹo) lên cây sào (cây bẹo) trên mũi thuyền. Vậy là không cần phải rao hàng như các chợ trên đất liền (thực tế cũng không thể rao khi tiếng sóng, tiếng máy nổ liên tục, và khó có thể áp mạn với xuồng khác để xem bán hàng gì.
Do nhu cầu của người đi chợ nên không chỉ có các xuồng trái cây, nông sản phẩm mà còn có nhiều loại dịch vụ khác: phở, hủ tiếu, cà phê, quán nhậu nổi… Các xuồng dịch vụ (thường là thuyền nhỏ) len lỏi rất thiện nghệ áp mạn phục vụ khách đi chợ tận tình và chu đáo, ngay cả khi sóng rập rình. Sự độc đáo của chợ nổi đã để lại nhiều ấn tượng cho du khách nước ngoài, họ quay phim chụp ảnh liên tục, đôi khi thích thú reo lên “ô”, “a” một cách tự nhiên, thú vị.
Chợ Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8, 9 giờ thì vãn. Những ghe bầu lớn thường chuyên thu mua trái cây để chở đi các nơi, kể cả sang Cam-pu-chia và Trung Quốc. Lại cũng có những ghe bầu chở các mặt hàng khác cung cấp cho bà con miệt vườn: xăng dầu, muối mắm, thuốc tây, bánh kẹo, nhu yếu phẩm…
Trên miền sông nước của 12 tỉnh miền Tây Nam Bộ, cái xuồng là phương tiện đi lại chủ yếu của mỗi gia đình, giống như chiếc xe đạp, xe máy của người dân ở các thành phố. Phần lớn các xuồng đều gắn máy “đuôi tôm”, thỉnh thoảng mới gặp những xuồng trèo tay và thậm chí cả những xuồng trèo bằng… chân một cách điệu nghệ.
Chợ nổi Cái Răng là điểm đến hấp dẫn của mọi du khách. Chợ nổi Cái Răng thuộc quận Cái Răng, Tp. Cần Thơ, cách bến Ninh Kiều 30′ bằng canô.

Lễ hội Hết Chá – Văn hóa tâm linh của người Thái Sơn La
Huyền thoại
Ngày 26/3, tại rừng thông bản Áng, xã Đông Sang (Mộc Châu) đã diễn ra lễ hội Hết Chá năm 2012. Với nhiều người có lẽ cái tên “Lễ hội Hết Chá” còn khá xa lạ. Chuyện rằng, xưa kia, người Thái rất nghèo, không có tiền mua thuốc chữa bệnh, thường đến nhờ thầy mo. Thầy mo dùng mẹo và nhờ thần linh nên đã chữa được bệnh cho dân làng. Mang ơn thầy mo, nhiều người xin được làm con nuôi của ông. Và rồi, cứ mỗi dịp cuối năm (vào 29, 30 Tết), con cháu lại đến tạ ơn thầy mo, nhưng thời điểm đó đang bận rộn cho tết nên thầy mo ấn định lễ tạ ơn sẽ tổ chức vào tháng 3 hàng năm... Lễ hội Hết Chá từ đó mà thành. Lễ hội Hết Chá, là hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh sâu sắc, là lễ hội đoàn kết cộng đồng, cùng giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Cũng là dịp để người dân tạ ơn đất trời, tạ ơn đấng sinh thành, giáo dưỡng, cầu chúc cho vạn vật hòa hợp, sinh sôi nảy nở, cuộc sống yên vui, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu, mọi người ấm no hành phúc. Lễ hội còn thể hiện ý thức gắn kết cộng đồng dân tộc Thái, cùng nhau bước vào mùa vụ mới. Cũng từ Lễ hội Hết Chá, đã có rất nhiều đôi trai gái bén duyên, rồi nên nghĩa vợ chồng.
Nét đẹp Lễ hội
Sau lễ lấy hoa, dâng hoa sẽ diễn ra lễ hội, gồm 2 phần: lễ và hội. Phần lễ là dịp để người con nuôi bày tỏ lòng thành kính với thầy mo đã chữa bệnh cho mình, mang tính nhân văn sâu sắc. Thông qua phần lễ với những tích xưa được kể và dựng lại do chính những người dân biểu diễn, người tham dự lễ hội sẽ được truyền dạy kinh nghiệm sản xuất cũng như nghe những lời răn dạy để mọi người sống với nhau tốt hơn. Điểm nổi bật của những tích trò là tính hài hước, hóm hỉnh theo lối gái giả trai, trai giả gái, làm cho người xem cười thỏa thích.
Phần hội diễn ra những trò diễn dân gian vui nhộn, dạy con cháu khai hoang ruộng, tập cho trâu cày, khơi dậy nền văn minh lúa nước của đồng bào dân tộc. Đan xen một số tiết mục kịch câm dí dỏm, vui nhộn phê phán những thói hư tật xấu, khích lệ những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống thường nhật. Bên cạnh đó, là những điệu xòe uyển chuyển, nhịp nhàng, duyên dáng quanh cây nêu hòa cùng tiếng trống, chiêng rộn rã và âm thanh chầm bổng của đội nhạc như đang mời gọi. Điệu xòe trong Lễ hội Hết Chá được gọi là “Xòe Chá” gồm 6 mục chủ yếu, mỗi mục gắn với một sự việc, được minh họa bằng kịch câm. Các cụ ngày xưa soạn thành thơ, như ca ngợi tình yêu trai gái, vợ chồng, trong mục có tên “rủ nhau đi hái măng rừng” là:
Thanh niên trai gái làng ơi
Lúc lâm mệt nhọc nghỉ ngơi chút nào
Phát xong nương dẫy ta mừng
Cùng nhau đi hái măng rừng để ăn
Em cầm dao thuổng giúp anh
Anh đào măng được anh giành cho em
Anh ơi cố đào cho nhanh
Được măng đầy bế em anh cùng về
Không thì cha đợi, mẹ mong.
Nếu anh còn có tấm lòng bên em
Hay trong mục “bảo vệ hoa mầu-làng xóm”, minh họa bằng những câu thơ:
Ngày đêm canh gác bản làng
Bảo vệ nương ruộng xóm làng yên vui
Không cho thú phá giặc xâm
Người đeo dao kiếm, người cầm cung tên
Thú nào phá hoại ruộng ta
Mọi người mõ chống đuổi ra khỏi làng
Tuần tra canh gác bản mường
Giặc xâm cướp đến cung gươm sẵn sàng
Được mùa bản làng vui cười
Trẻ, già, trai, gái, mọi người múa ca.
Mọi hoạt động trong Lễ hội xung quanh một cây nêu, khơi dậy cuộc sống bình dị với thiên nhiên hoang dã được thể hiện trên cây nêu, với hoa ban, hoa mạ, hình con thú, con chim, ve sầu, ong bướm, chống chiêng… đủ mầu sắc treo trên cây nêu, tượng chưng cho sự sống, mùa xuân. Gốc cây nêu đặt những chum rượu cần để mời khách. Trong phần hội còn diễn ra những hoạt động vui chơi giải trí vui nhộn ở nhiều khu vực, thi: xòe dân tộc Thái, món ăn dân tộc, đi cầu kiều, đi cà kheo…
Lễ hội Hết Chá - một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh, gắn kết cộng đồng làng bản là nét rất riêng trong văn hóa của người Thái Sơn La.

Giá trị lịch sử của di tích và lễ hội chùa Keo
Ngoài ra, cuốn Không Lộ thiền sư ký ngữ lục bằng chữ Hán, không rõ tác giả và viết từ thời nào, hiện đang lưu giữ tại chùa Keo làng Dũng Nhuệ chép: “Vị thiền sư Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang tại Hải Thanh, là người Hải Thanh, họ Dương, húy là Minh Không thiền sư, theo nghiệp nhà làm nghề chài lưới… Về sau sư bỏ nghề đi tu theo phái Đà La Môn. Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ nhất (1059), sư cùng bạn là Giác Hải ra ngoài nước. Lúc đầu sư theo học cư sĩ Bảo Tài Ngô Xá rồi sau theo học thiền sư Thảo Đường và đắc đạo. Thiền sư Thảo Đường truyền thụ cho giáo lý của phái Tuyết Đậu Minh Giác”.
Dân làng Hành Thiện cho rằng theo thuyết phong thủy, ngôi chùa có ảnh hưởng rất lớn đến truyền thống của làng, do vậy từ xưa đến nay làng có nhiều người đỗ đạt, vinh hiển, là nơi có nhiều nhà khoa bảng bậc nhất ở miền Bắc. Truyền thống đó đến nay vẫn được các thế hệ làng Hành Thiện gìn giữ, bảo tồn và phát huy. Do vậy nhân dân Hành Thiện vẫn giữ nguyên lòng kính trọng, tri ân vị thánh tổ của làng – thiền sư Dương Không Lộ. Chùa Keo cũng như lễ hội tại chùa Keo có vị trí rất thiêng liêng đối với dân vùng Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình… nói chung và làng Hành Thiện nói riêng.
