Lễ hội đền Bà Vũ - nhớ "Người con gái Nam Xương"


(Sẻ Xanh) - Ngày 4/10, tại đền Bà Vũ, thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam, huyện Lý Nhân đã tổ chức lễ hội đền Bà Vũ năm 2012.



Đền Bà vũ thuộc thôn Vũ Điện, xã Chân Lý thờ bà Vũ Thị Thiết - "Người con gái Nam Xương" được Nguyễn Dữ chép trong "Truyền Kỳ Mạn Lục" vào thế kỷ thứ XVI. Đây là một trong những di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia tiêu biểu của tỉnh Hà Nam.

Lễ hội Đền Bà Vũ được tổ chức trong không khí trang nghiêm, mở đầu bằng màn rước nước và rước kiệu từ sông Hồng vào Đền, diễn ra từ sáng sớm. Tiếp đó là các màn đọc văn trình khai mạc lễ hội, tuyên đọc 6 bài thơ nói về Bà Vũ, trình diễn các điệu múa dân gian đặc sắc.

Truyền rằng, vào thế kỷ XV, ở trang Vũ Điện, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân có vợ chồng ông Vũ Thận và bà Nguyễn Thị Phiên ăn ở rất nhân từ. Ông bà có 4 người con, trong đó có cô con gái út đặt tên là Vũ Thị Thiết, hiệu là Nương Hương. Nương Hương là người học giỏi, thấu hiểu kinh sử, làm thơ rất hay.

Đến năm 19 tuổi, quê nhà bị mất mùa, nạn đói xảy ra khắp nơi, Nương Hương bàn với các anh đem của cải giúp người già yếu, được dân làng hết lời ca ngợi. Nương Hương lấy chồng tên là Trương Huyền, cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Huyền phải đi lính, để lại người vợ bụng mang dạ chửa. Một năm sau Vũ Thị Thiết sinh được một người con trai, nàng một mình nuôi con, phụng dưỡng bố mẹ chồng rất chu đáo.

Đêm đêm mẹ con ngồi bên bóng đèn, nhìn bóng mình in trên vách, Vũ Thị Thiết thường nói với con đấy là bổ đẻ để yên lòng con trẻ. Sau 3 năm, Trương Huyền hết hạn binh dịch trở về thì cha mẹ đều đã qua đời. Trương Huyền bế con nhưng đứa bé nhất định không chịu nói "Ông không phải bố tôi, bố tôi tối mới về." Nghe thấy thế, Trương Huyền hết mực ngờ vực và mắng nhiếc vợ mình. Vũ Thị Thiết khóc lóc phân trần nhưng chồng không tin, quá đau khổ nàng đã gieo mình xuống sông tự vẫn. Nhân dân thương nhớ người con gái trung hậu mà cuộc đời chịu nhiều nỗi đắng cay nên đã dựng miếu thờ nàng bên sông để hương khói phụng thờ.

Lễ hội đền Bà Vũ được tổ chức hàng năm, diễn ra trong các ngày 19 đến 21/8 âm lịch để tưởng niệm ngày mất của bà vào ngày 20/8 âm lịch. Đây cũng là dịp để dân làng tạ ơn thần, phật, cầu cho "Quốc thái dân an, nhân khang, vật thịnh". Dự lễ hội, du khách thập phương còn được tham dự các trò chơi dân gian truyền thống như kéo co, cờ người, leo cầu kiều, bắt vịt ở ao đền, bịt mắt đập niêu./.

Đức Phương


Xem tiếp


Độc đáo lễ hội cầu Trăng của dân tộc Tày Hà Giang


(Sẻ Xanh) - Đến với Hà Giang trong những ngày Rằm tháng Tám âm lịch, du khách sẽ có dịp chứng kiến lễ hội cầu Trăng hết sức độc đáo của đồng bào Tày ở thôn Bản Loan, xã Yên Định (huyện Bắc Mê).


 
Dân tộc Tày ở Hà Giang có khoảng trên 160.000 người, chiếm 25% dân số trong tỉnh, đông thứ hai sau dân tộc H'Mông. Người Tày sinh sống rải rác ở các huyện, thành phố trong tỉnh nhưng tập trung đông nhất là ở các huyện Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê.

Bà con dân tộc Tày quan niệm trên cung Trăng có mẹ Trăng và 12 nàng tiên (con gái của mẹ). Mẹ Trăng cùng 12 nàng tiên là những người luôn chăm lo, bảo vệ mùa màng cho muôn dân.

Từ bao đời nay, với lễ hội dân gian mang đậm màu sắc tâm linh này, đồng bào Tày ở thôn Bản Loan thường duy trì tổ chức với ý nghĩa đón mẹ Trăng và các nàng tiên xuống vui Tết Trung Thu. Mẹ Trăng ban phước lành cho dân bản, cầu cho mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa, cuộc sống trong bản luôn bình an và gặp nhiều may mắn.

Được tổ chức vào đúng ngày Rằm tháng Tám (Tết Trung Thu), Lễ hội cầu Trăng có hai phần lễ và hội. Phần lễ thường được tổ chức vào tối 14/8 âm lịch trên một bãi đất rộng với các nghi thức "cúng thổ công chúa bản" tại ngôi miếu chung để xin phép cho dân bản được tổ chức lễ hội cầu Trăng vào đêm hôm sau.

Ngày lễ này là ngày vui nhất của bà con dân tộc Tày nơi đây. Bà con dân bản từ già, trẻ, gái, trai đều đến tham gia đông đủ, họ dâng các sản vật, khấn mời mẹ Trăng xuống hạ giới nghe những tâm tư, tình cảm của người dân sau một năm siêng năng làm lụng.

Lễ vật gồm thịt, rượu, các loại bánh, xôi nhuộm ngũ sắc. Sau khi thực hiện xong nghi lễ trình báo mẹ Trăng và 12 nàng tiên, già làng tiến hành các nghi lễ cầu phúc, cầu may, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi; mời mẹ Trăng và các nàng tiên về ban mùa màng và phước lành cho dân bản.

Đêm hôm sau, đúng vào ngày Rằm tháng Tám, khi mẹ Trăng lên khỏi đỉnh núi và bắt đầu tỏa sáng xuống bản làng, tất cả bà con tập trung ở sân. Lúc này thầy cúng tiến hành cúng thổ công và các thần linh, các nghệ nhân cúng tế múa vòng quanh giàn cúng khi khai hội đón Trăng.

Sau khi đã làm lễ cầu mẹ Trăng và các nàng tiên ban cho các cây, con giống tốt, gặp nhiều điều kiện thuận lợi trong gieo trồng, sản xuất chăn nuôi, tất cả bà con trong bản quây quần uống rượu, múa hát quanh xung bàn lễ. Trai gái đều mặc những trang phục đẹp nhất, nhất là các cô gái trở nên xinh đẹp nổi bật với những trang sức bằng vòng tay, vòng cổ và xà tích bằng bạc. Họ say sưa hát những làn điệu dân ca, tiếng hát cọi, hát yếu... chan chứa tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi hạnh phúc lứa đôi.

Khi đến với lễ hội cầu Trăng, không chỉ được nghe hát những làn điệu dân ca, các trò chơi dân gian, du khách còn được thưởng thức các món ẩm thực truyền thống của bà con dân tộc Tày như cơm lam, các món rau rừng, mắm thịt lợn, mắm cá chép ruộng, trám muối, xôi ngũ sắc, măng chua, trám đen chấm với muối vừng.

Lễ hội cầu Trăng là ngày hội vui nhất của người Tày, trong những ngày này những người già gặp nhau hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện phát triển sản xuất, chăn nuôi. Với thanh niên, đây là ngày hội để các chàng trai, cô gái gặp gỡ trao duyên. Các trẻ em được rước đèn ông sao, vui chơi, phá cỗ dưới ánh Trăng Rằm.

Đêm hội cầu Trăng kết thúc khi mẹ Trăng lên giữa đỉnh đầu, cả bản lưu luyến làm lễ tiễn mẹ Trăng về trời, sau đó họ lại tiếp tục ngân nga trong câu hát then, hát cọi đầy sức lôi cuốn lòng người.

Kết thúc buổi lễ, già làng sẽ phát các hạt giống cho con cháu, cầu cho tất cả bà con trong bản một vụ mùa gieo trồng thuận lợi, mùa màng bội thu, dân bản no ấm.

Thông qua việc tổ chức lễ hội cầu Trăng, bà con dân tộc Tày còn truyền dạy cho con cháu của mình lòng tự hào, gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc của dân tộc./.

Minh Tâm


Xem tiếp


Lễ hội Văn hóa Trà tại Đà Lạt năm 2012 hứa hẹn nhiếu hấp dẫn


(Sẻ Xanh) - Nằm trong khuôn khổ “Tuần Văn hóa Trà Lâm Đồng – Năm 2012, từ ngày 21 đến ngày 24/12/2012, tại thành phố Đà Lạt sẽ diễn ra nhiều hoạt động đặc sắc.
 
tra

Các chương trình như: hội chợ triển lãm, giới thiệu văn hóa trà, triển lãm hoa địa lan Đà Lạt; Hội chợ thương mại du lịch Đà Lạt mùa đông; Liên hoan biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp; Đại hội danh trà, Diễu hành đường phố biểu dương thương hiệu trà, thi chất lượng trà giành cúp Cánh chè vàng, thi văn hóa ẩm thực trà....sẽ được diễn ra trong tuần văn hóa trà.

Tận mắt chiêm ngưỡng cách pha nhiều loại trà nổi tiếng khác nhau của người Việt, được thưởng thức miễn phí hương vị trà Bảo Lộc – Lâm Đồng và nhiều loại trà của mọi miền đất nước là một trải nghiệm mà du khách sẽ rất thích thú.

Đây cũng là dịp mà du khách tham quan các danh thắng của Đà lạt như: Thác Damb’ri - một trong những thác đẹp và hùng vĩ nhất của Lâm Đồng, Thiền viện Trúc Lâm, hồ Tuyền Lâm, dinh Bảo Đại, thung lũng tình yêu, chinh phục đỉnh núi Lang Biang, ngắm toàn cảnh Đà Lạt từ độ cao trên 1.600m ... hay cuồng nhiệt cùng chương trình "Hip hop - Nhịp điệu xanh” với sự trình diễn của 20 nhóm Hip hop đến từ các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước. Nếu là người yêu hoa, bạn sẽ ngẩn ngơ với triển lãm "Hoa địa lan Đà Lạt” tại vườn hoa thành phố, chỉ có trong dịp lễ hội.

Lễ hội diễn ra đúng dịp Noel, nên tối ngày 24/12/2012, du khách sẽ được hòa mình vào không khí se lạnh, chào đón Noel cùng người dân Đà Lạt với nhiều chương trình hấp dẫn: đêm hội "Lung linh mùa đông Đà Lạt”, các tiết mục múa "Chào Đà Lạt” do 200 diễn viên tham gia liên hoan Hip hop cùng biểu diễn, tiết mục "Thắp nến cho tình yêu” với khoảng 2.000 người tham dự, tiết mục "Vũ khúc ông già Noel” với sự xuất hiện của 200 ông già Noel tặng quà cho trẻ em; và cuối cùng là tiết mục "Dạ vũ mùa đông” với khoảng 1.000 đôi bạn tham dự.

“Tuần Văn hóa Trà Lâm Đồng – 2012” sẽ diễn ra từ ngày 21/12 đến hết 28/12/2012, với không gian lễ hội: Thành phố Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt và các địa phương huyện Bảo Lâm, huyện Di Linh…


Xem tiếp


Rộn ràng lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên


(SeXanh) – Người dân huyện Văn Lâm, Hưng Yên đã tưng bừng tổ chức lễ hội cầu mưa. Cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa để người dân có mùa màng bội thu cuộc sống được ấm no hạnh phúc.

cau mua
















Tương truyền rằng, cứ mỗi khi trời hạn hán thì người dân nơi đây lại làm lễ cầu mưa; vì vậy lễ hội không được tổ chức thường xuyên hàng năm. Đến năm 2005 trở lại đây lễ hội cầu mưa mới thực sự trở thành ngày hội vui nhất của người dân nơi đây. Trong ngày này, ngoài ý nghĩa tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) tại đồng bằng Bắc Bộ nó còn là dịp để gia đình quây quần xum họp, bàn chuyện làm ăn, phát triển sản xuất, chăn nuôi, cày cấy…

“Lễ hội cầu mưa là một lễ hội tín ngưỡng phồn thực đã có từ lâu đời. Nó thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên, cầu mong thế giới tự nhiên ban phát cho công sức lao động của người dân sẽ có thành quả, đời đời no ấm” Đại đức Thích Thanh Nguyên, Phó trưởng ban đại diện hội Phật giáo huyện Văn Lâm, trụ trì chùa Pháp Điện, xã Lạc Hồng (Văn Lâm) cho biết.

Thông qua việc tổ chức lễ hội cầu mưa, người dân nơi đây còn truyền dạy cho con cháu của mình tự hào, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc của dân tộc.


Xem tiếp


Tết Trung thu Việt Nam - Ý nghĩa và phong tục


(SeXanh) – Tết Trung Thu theo Âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là “Tết trông Trăng”. Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân… rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức múa lân, múa sư tử để các em vui chơi thoả thích.


Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được diễn tả trong tục: “Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Đầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu sắc sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp”.
Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê – Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang – trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn.


Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.
Ý nghĩa tết Trung Thu:
Theo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bày cỗ cho các con để mừng Trung Thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng Trung Thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để cha mẹ tùy theo khả năng kinh tế gia đình thể hiện tình thương yêu con cái một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng khít thêm.
Cũng trong dịp này người ta mua bánh Trung Thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác.
Người Trung Hoa thường tổ chức múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà… Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba “thình, thùng, thình”.
Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.
Ngắm trăng (Thưởng nguyệt):
Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh Trung Thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống… sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.
 Bày cỗ:


Mâm cỗ Trung Thu thông thường có trọng tâm là con chó được làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen làm mắt. Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm hoặc là loại bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con bép múp míp, hoặc hình cá chép là những hình phổ biến. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây thép, phơi khô từ 2-3 tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng. Những loại quả, thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na dai…và bưởi là thứ quả không thể thiếu được. Đến khi trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ, mọi người sẽ cùng thưởng thức hương vị của Tết Trung Thu. Phong tục trông trăng cũng liên quan đến sự tích Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng, cây đa quý bị bật gốc bay lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại nhưng không được và đã bị bay lên cung trăng với cả cây của mình. Nhìn lên mặt trăng, có thể thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, và trẻ em tin rằng, đó là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.
Hát trống quân:
Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng “thình thùng thình” làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục này.
Múa lân


Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân… Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.
Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v…


Xem tiếp


Chợ Bến Thành


(SeXanh) – Chợ Bến Thành ngày nay có hình chữ nhật, trổ bốn cửa ra quảng trường Quách Thị Trang và các con đường: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.



Nằm ở trung tâm thành phố. Chợ Bến Thành ngày nay có hình chữ nhật, trổ bốn cửa ra quảng trường Quách Thị Trang và các con đường: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế khi đến tham quan du lịch thành phố Hồ Chí Minh.
Trước khi Pháp xâm chiếm Sài Gòn năm 1859, có một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Từ xuất xứ ấy mà chợ đã mang tên ghép là Bến Thành. Chợ được xây bằng gạch, khung gỗ, lợp tranh. Năm 1870, chợ bị cháy một phần. Năm 1911, chợ cũ bị phá đi, chợ mới được xây khang trang rộng rãi hơn và hoàn thành vào tháng 3/1914.
Sau năm 1975, chợ Bến Thành lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước. Năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lại toàn bộ bên trong, bên ngoài, duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Hình ảnh chợ Bến Thành với tháp đồng hồ thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố.
Giờ đây chợ Bến Thành là một trung tâm buôn bán lớn không chỉ của TP Hồ Chí Minh mà còn của các tỉnh phía Nam.


Xem tiếp


Chợ nổi Cái Răng


(SeXanh) – Cái Răng là một trong những chợ trên sông nổi tiếng ở miền Tây Nam Bộ. Chợ chuyên mua bán các loại trái cây, nông sản của vùng.



Sáng sáng, hàng trăm chếc thuyền lớn bé đậu san sát. Bán sản vật gì người ta treo sản vật đó (treo bẹo) lên cây sào (cây bẹo) trên mũi thuyền. Vậy là không cần phải rao hàng như các chợ trên đất liền (thực tế cũng không thể rao khi tiếng sóng, tiếng máy nổ liên tục, và khó có thể áp mạn với xuồng khác để xem bán hàng gì.

Do nhu cầu của người đi chợ nên không chỉ có các xuồng trái cây, nông sản phẩm mà còn có nhiều loại dịch vụ khác: phở, hủ tiếu, cà phê, quán nhậu nổi… Các xuồng dịch vụ (thường là thuyền nhỏ) len lỏi rất thiện nghệ áp mạn phục vụ khách đi chợ tận tình và chu đáo, ngay cả khi sóng rập rình. Sự độc đáo của chợ nổi đã để lại nhiều ấn tượng cho du khách nước ngoài, họ quay phim chụp ảnh liên tục, đôi khi thích thú reo lên “ô”, “a” một cách tự nhiên, thú vị.
Chợ Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8, 9 giờ thì vãn. Những ghe bầu lớn thường chuyên thu mua trái cây để chở đi các nơi, kể cả sang Cam-pu-chia và Trung Quốc. Lại cũng có những ghe bầu chở các mặt hàng khác cung cấp cho bà con miệt vườn: xăng dầu, muối mắm, thuốc tây, bánh kẹo, nhu yếu phẩm…

Trên miền sông nước của 12 tỉnh miền Tây Nam Bộ, cái xuồng là phương tiện đi lại chủ yếu của mỗi gia đình, giống như chiếc xe đạp, xe máy của người dân ở các thành phố. Phần lớn các xuồng đều gắn máy “đuôi tôm”, thỉnh thoảng mới gặp những xuồng trèo tay và thậm chí cả những xuồng trèo bằng… chân một cách điệu nghệ.
Chợ nổi Cái Răng là điểm đến hấp dẫn của mọi du khách. Chợ nổi Cái Răng thuộc quận Cái Răng, Tp. Cần Thơ, cách bến Ninh Kiều 30′ bằng canô.


Xem tiếp


Lễ hội Hết Chá – Văn hóa tâm linh của người Thái Sơn La


(Sẻ Xanh) - Vùng đất thấp, cái chậu khổng lồ... là một cách gọi khác của bản Áng, xã Đông Sang (Mộc Châu) - Nơi đây được thiên nhiên ban tặng sơn thủy hữu tình với những đồi thông bạt ngàn gió và hồ nước xanh trong, khí hậu trong lành, mát mẻ.


Bản Áng đã trở thành khu nghỉ mát và du lịch sinh thái thơ mộng. Mảnh đất nơi đây giàu truyền thống, con người hiền hòa hiếu khách, với nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Thái. Tháng Ba, vào mùa hoa ban rực sáng núi rừng, người dân bản Áng lại tưng bừng tổ chức “Lễ hội Hết Chá”.

Huyền thoại


Ngày 26/3, tại rừng thông bản Áng, xã Đông Sang (Mộc Châu) đã diễn ra lễ hội Hết Chá năm 2012. Với nhiều người có lẽ cái tên “Lễ hội Hết Chá” còn khá xa lạ. Chuyện rằng, xưa kia, người Thái rất nghèo, không có tiền mua thuốc chữa bệnh, thường đến nhờ thầy mo. Thầy mo dùng mẹo và nhờ thần linh nên đã chữa được bệnh cho dân làng. Mang ơn thầy mo, nhiều người xin được làm con nuôi của ông. Và rồi, cứ mỗi dịp cuối năm (vào 29, 30 Tết), con cháu lại đến tạ ơn thầy mo, nhưng thời điểm đó đang bận rộn cho tết nên thầy mo ấn định lễ tạ ơn sẽ tổ chức vào tháng 3 hàng năm... Lễ hội Hết Chá từ đó mà thành. Lễ hội Hết Chá, là hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh sâu sắc, là lễ hội đoàn kết cộng đồng, cùng giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

ng


Cũng là dịp để người dân tạ ơn đất trời, tạ ơn đấng sinh thành, giáo dưỡng, cầu chúc cho vạn vật hòa hợp, sinh sôi nảy nở, cuộc sống yên vui, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu, mọi người ấm no hành phúc. Lễ hội còn thể hiện ý thức gắn kết cộng đồng dân tộc Thái, cùng nhau bước vào mùa vụ mới. Cũng từ Lễ hội Hết Chá, đã có rất nhiều đôi trai gái bén duyên, rồi nên nghĩa vợ chồng.

Nét đẹp Lễ hội


Sau lễ lấy hoa, dâng hoa sẽ diễn ra lễ hội, gồm 2 phần: lễ và hội. Phần lễ là dịp để người con nuôi bày tỏ lòng thành kính với thầy mo đã chữa bệnh cho mình, mang tính nhân văn sâu sắc. Thông qua phần lễ với những tích xưa được kể và dựng lại do chính những người dân biểu diễn, người tham dự lễ hội sẽ được truyền dạy kinh nghiệm sản xuất cũng như nghe những lời răn dạy để mọi người sống với nhau tốt hơn. Điểm nổi bật của những tích trò là tính hài hước, hóm hỉnh theo lối gái giả trai, trai giả gái, làm cho người xem cười thỏa thích.
 
ng

Phần hội diễn ra những trò diễn dân gian vui nhộn, dạy con cháu khai hoang ruộng, tập cho trâu cày, khơi dậy nền văn minh lúa nước của đồng bào dân tộc. Đan xen một số tiết mục kịch câm dí dỏm, vui nhộn phê phán những thói hư tật xấu, khích lệ những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống thường nhật. Bên cạnh đó, là những điệu xòe uyển chuyển, nhịp nhàng, duyên dáng quanh cây nêu hòa cùng tiếng trống, chiêng rộn rã và âm thanh chầm bổng của đội nhạc như đang mời gọi. Điệu xòe trong Lễ hội Hết Chá được gọi là “Xòe Chá” gồm 6 mục chủ yếu, mỗi mục gắn với một sự việc, được minh họa bằng kịch câm. Các cụ ngày xưa soạn thành thơ, như ca ngợi tình yêu trai gái, vợ chồng, trong mục có tên “rủ nhau đi hái măng rừng” là:


Thanh niên trai gái làng ơi

Lúc lâm mệt nhọc nghỉ ngơi chút nào

Phát xong nương dẫy ta mừng

Cùng nhau đi hái măng rừng để ăn

Em cầm dao thuổng giúp anh

Anh đào măng được anh giành cho em

Anh ơi cố đào cho nhanh

Được măng đầy bế em anh cùng về

Không thì cha đợi, mẹ mong.

Nếu anh còn có tấm lòng bên em

Hay trong mục “bảo vệ hoa mầu-làng xóm”, minh họa bằng những câu thơ:

Ngày đêm canh gác bản làng

Bảo vệ nương ruộng xóm làng yên vui

Không cho thú phá giặc xâm

Người đeo dao kiếm, người cầm cung tên

Thú nào phá hoại ruộng ta

Mọi người mõ chống đuổi ra khỏi làng

Tuần tra canh gác bản mường

Giặc xâm cướp đến cung gươm sẵn sàng

Được mùa bản làng vui cười

Trẻ, già, trai, gái, mọi người múa ca.

Mọi hoạt động trong Lễ hội xung quanh một cây nêu, khơi dậy cuộc sống bình dị với thiên nhiên hoang dã được thể hiện trên cây nêu, với hoa ban, hoa mạ, hình con thú, con chim, ve sầu, ong bướm, chống chiêng… đủ mầu sắc treo trên cây nêu, tượng chưng cho sự sống, mùa xuân. Gốc cây nêu đặt những chum rượu cần để mời khách. Trong phần hội còn diễn ra những hoạt động vui chơi giải trí vui nhộn ở nhiều khu vực, thi: xòe dân tộc Thái, món ăn dân tộc, đi cầu kiều, đi cà kheo…

Lễ hội Hết Chá - một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh, gắn kết cộng đồng làng bản là nét rất riêng trong văn hóa của người Thái Sơn La.


Xem tiếp


Giá trị lịch sử của di tích và lễ hội chùa Keo


(SeXanh) – Chùa Keo, còn gọi là Thần Quang tự, thờ thiền sư Không Lộ, tọa lạc trên một mảnh đất rộng chừng năm mẫu (khoảng 2ha) thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.


Thiền sư Dương Không Lộ là một vị cao tăng thời Lý, có công lớn trong việc du nhập và hoằng dương Phật pháp vào Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng. Do nhiều nguyên nhân, các nguồn tư liệu viết về thiền sư Dương Không Lộ thật khan hiếm đã gây nên sự nhầm lẫn về tiểu sử và hành trạng của Dương Không Lộ. Thiền sư không được chính sử ghi chép một cách chính xác, cẩn thận giống như nhiều nhân vật lịch sử khác, kể cả Đại Việt sử ký toàn thưViệt sử lược, là hai bộ sử cổ nhất, cũng không ghi chép rõ ràng về thiền sư Không Lộ. Tuy nhiên, không chỉ ở chùa Keo làng Hành Thiện, Nam Định và chùa Keo làng Dũng Nhuệ, Thái Bình thờ Không Lộ mà hiện nay còn nhiều di tích khác như chùa Am (Thái Bình), làng Đức Thắng (Bắc Giang), làng Ngũ Xá, Mai Lâm (Hà Nội)… vẫn đang thờ ngài với tư cách thành hoàng (tổ nghề) (1).
Cuốn Thiền uyển tập anh ngữ lục, bản in tháng tư năm Vĩnh Thịnh thứ 11(1715) ghi: “Thiền sư Dương Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang, phủ Hải Thanh, mấy đời làm nghề câu cá, sau bỏ nghề ấy mà đi tu, thường hay đọc kinh Già la ni môn. Trong các năm Chương Thánh, Gia Khánh, đời Lý Thần Tông thường cùng đạo hữu ở ẩn đất Hà Trạch, quên cả thân mình, ngoài không đi đến đâu, trong thì tu thiền định. Bỗng thấy tâm thần tai mắt sáng sủa, có thể bay trên không, đi trên băng giá, bắt được hổ phải phục, bắt được rồng phải giáng, vô cùng quái đản người ta không sao lường biết được. Sau tìm về một ngôi chùa ở quận nhà mà ở… Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ mười thì tịch, môn nhân thu xác táng ở cửa chùa, Vua hạ chiếu cho mở rộng chùa này, quyên hai mươi hộ phụng hương hỏa”.
Trong cuốn Quốc sư bảo lục của tiến sĩ Đặng Xuân Bảng ở làng Hành Thiện biên soạn vào cuối TK XIX có đoạn viết: “Không Lộ họ Dương… quán ở Hải Thanh… Không Lộ sinh năm Bính Thìn, niên hiệu Thuận Thiên thứ bảy (1016) đời Lý Thái Tổ… tịch năm Giáp Tuất, niên hiệu Hội Phong thứ ba (1904) đời Lý Nhân Tông”.
Sách Lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú có chép: “Thiền sư Không Lộ chùa Nghiêm Quang, huyện Hải Thanh là người họ Dương ở Hải Thanh, mấy đời làm nghề đánh cá, bỏ nghề ấy đi tu, thường hay đọc kinh Già la ni môn… Sau tìm về một ngôi chùa ở quận nhà mà ở… Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ mười thì chết; môn nhân thu xác táng ở cửa chùa. Vua hạ chiếu cho sửa rộng chùa này, quyên hai mươi hộ phụng hương hỏa” (2).
 
Ngoài ra, cuốn Không Lộ thiền sư ký ngữ lục bằng chữ Hán, không rõ tác giả và viết từ thời nào, hiện đang lưu giữ tại chùa Keo làng Dũng Nhuệ chép: “Vị thiền sư Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang tại Hải Thanh, là người Hải Thanh, họ Dương, húy là Minh Không thiền sư, theo nghiệp nhà làm nghề chài lưới… Về sau sư bỏ nghề đi tu theo phái Đà La Môn. Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ nhất (1059), sư cùng bạn là Giác Hải ra ngoài nước. Lúc đầu sư theo học cư sĩ Bảo Tài Ngô Xá rồi sau theo học thiền sư Thảo Đường và đắc đạo. Thiền sư Thảo Đường truyền thụ cho giáo lý của phái Tuyết Đậu Minh Giác”.
Về tư liệu bia ký còn hai tấm bia có nhắc đến việc phụng thờ thiền sư. Bia thứ nhất ở trước tòa Phụ Quốc ở chùa Keo làng Dũng Nhuệ hình vuông, bốn mặt đều khắc niên hiệu Chính Hòa thứ mười (1689) ghi: “Chùa này thờ ông Không Lộ rất linh thiêng, được vua nhà Lý cấp ruộng đất ngàn mẫu”. Tấm bia thứ hai lưu giữ tại chùa La Vân có nhắc đến vị thiền sư Dương Không Lộ được dựng vào năm Đức Long thứ năm (1633).
Về sau, thiền sư tìm về một ngôi chùa ở quê nhà trụ trì và truyền bá giáo lý Phật giáo và tịch ngày 3-6 năm Nhâm Tuất (1094) đời vua Lý Nhân Tông. Thiền sư Không Lộ được nhân dân thờ phụng với tư cách là sư tổ sáng lập nên hai ngôi chùa nổi tiếng ở vùng châu thổ Bắc Bộ là chùa Keo làng Hành Thiện (Nam Định) và chùa Keo làng Dũng Nhuệ (Thái Bình). Vùng này còn lưu truyền sự tích thiền sư Không Lộ có công đánh giặc, diệt thủy quái, là người dạy dân nghề đánh cá, trồng lúa, nghề đúc đồng, đan lát. Thiền sư đã từng sang Trung Quốc quyên đồng về đúc tứ đại khí của nước Đại Việt xưa, xây dựng chùa Keo và đúc chuông chùa Keo. ảnh hưởng của thiền sư lan rộng khắp vùng châu thổ sông Hồng, không chỉ dân vùng Sơn Nam hạ (Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) thờ ngài là tổ nghề, thành hoàng làng mà dân làng Ngũ Xã (Gia Lâm, Hà Nội), Đức Thắng (Bắc Giang), Ninh Giang (Hải Dương) hiện vẫn thờ phụng thiền sư với tư cách thành hoàng, tổ nghề.
Chùa Keo, còn gọi là Thần Quang tự, thờ thiền sư Không Lộ, tọa lạc trên một mảnh đất rộng chừng năm mẫu (khoảng 2ha) thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Chùa quay hướng nam, ba mặt giáp sông, đó là các con sông Đồng Lê, sông Ninh Cơ, sông Hồng, địa thế thoáng đãng, rộng rãi. Địa thế khu chùa rất đẹp, hẳn khi dựng chùa người xưa đã chọn lựa kỹ càng như bài minh trên bia Thần Quang tự đại pháp sư bi đã ghi: “chùa Thần Quang, xã Hành Cung, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường là nơi vượng khí trời Nam, danh lam nước Việt. Núi cao chót vót nghìn hàng như dáng hùng dáng hổ, dòng ngân nước uốn mênh mông, khúc lượn quanh co cuồn cuộn, anh linh do kiền khôn chung đúc, tu luyện thành tiên thành phật”.
Phía trước chùa có hồ nước trong xanh, soi bóng tháp chuông uy nghiêm, thơ mộng, phía Đông là biển, sông Hồng ở phía bắc, phía nam sông Ninh Cơ bao bọc. Theo quan niệm phong thủy xưa thì vùng đất này có thế tay ngai tiện cho việc dựng chùa chiền, lâu đài, thành quách.
Chùa Keo có phong cách thờ tự tiền phật hậu thánh, được xây dựng kiểu nội công, ngoại quốc, có quy mô lớn ở bao gồm: nghi môn, gác chuông, chùa thờ phật, đền thờ thánh, tả hữu vu, nhà tổ, nhà oản, nhà để đồ… được xây dựng đối xứng qua trục thiêng, tổng cộng 121 gian (có nơi còn gọi là chùa trăm gian). Chùa nằm trong một không gian thiêng thờ thiền sư Dương Không Lộ vùng Nam Định, Thái Bình với các công trình kiến trúc đều có tên là Keo. Chùa được xây dựng trên một khu đất rộng, địa thế cao ráo, theo thuyết phong thủy thì đây là vị trí đắc địa vì là nơi ngự của vị thánh có vai trò quan trọng nhất trong đời sống tâm linh người dân làng Hành Thiện. Chùa quay hướng Nam mang dương tính, gắn với điều thiện và hạnh phúc, là hướng của trí tuệ và bát nhã, phía trước chùa là con sông Đồng Lê mang tư cách một dòng chi huyền thủy khẳng định sự tụ linh, tụ phúc của khu đất này; đồng thời lại nối với sông Ninh Cơ (một nhánh của sông Hồng chảy qua mặt chùa phía xa xa) cùng với sự quanh co, uốn lượn của nó như tạo thành đàn rồng rắn chầu về, như để biểu hiện sự quy phục Phật pháp và thánh Dương Không Lộ (3).
Niên đại của chùa Keo thuộc thời Lê, điều này có thể khẳng định qua tư liệu bia ký hoặc căn cứ vào phong cách thờ tự, trang trí, điêu khắc tại chùa với hệ thống hoành tròn đặc trưng, hình chạm nổi các văn mây, đao hỏa, kiếm lửa tại tam quan, chùa, đền cùng các di vật đồ thờ tiêu biểu khác.
Chùa được xây dựng theo kiểu kiến trúc sau: nghi môn – tam quan (kiêm gác chuông) – khu thờ phật – khu thờ thánh – hậu đường – hai dãy nhà dọc (hành lang/tả hữu vu). Đại diện cho mặt bằng này có thể kể đến chùa Bối Khê, chùa Trăm gian, chùa Keo Nam Định…
Trong mặt bằng kiến trúc này, ta thấy sự có mặt của một số công trình vốn không xuất hiện ở các chùa thông thường như nghi môn, điện thánh và tả hữu vu. Ngoài ra, trước TK XIX, tất cả những chùa tiền phật hậu thánh đều không có sự tồn tại của những vườn tháp mang tư cách mộ sư (vì dạng chùa này vốn không có sư)… Đây là những kiến trúc thể hiện rõ nét riêng biệt của chùa tiền phật hậu thánh so với các dạng chùa khác ở nước ta (4). Lớp cửa ngoài cùng của ngôi chùa là nghi môn (một số tài liệu cho rằng là tam quan ngoại) bởi lẽ cổng ngoài chức năng để vào, ra còn thể hiện ý nghĩa triết học sâu sắc. Tam quan gồm không quan, giả quan và trung quan… Sau tam quan là nhất chính đạo, tượng trưng bằng con đường duy nhất dẫn tới Phật đài (5). Như vậy, chùa Việt chỉ có thể có một tam quan, sau tam quan các công trình kiến trúc phải nằm đối xứng qua trục trung tâm. Công trình kiến trúc bên ngoài tam quan là nghi môn, tức là cửa nghi lễ; nó không mang ý nghĩa triết học như tam quan. Bên cạnh đó, tả vu, hữu vu chùa Keo được xây dựng vượt lên trước tòa tiền đường chùa Phật, nối liền với tam quan. Chính điều này đã thể hiện sâu sắc tính chất chùa kiêm đền thờ của chùa Keo.
Đền thờ thánh không được xây dựng ở một không gian riêng mà được xây cùng với chùa thờ Phật, vì vậy dễ dàng nhận diện được hai mặt văn hóa tâm linh Phật giáo và tín ngưỡng dân gian dung hòa, bổ sung cho nhau. Đền thờ thánh được xây dựng phía sau chùa Phật. Theo kiến trúc dân gian truyền thống, những công trình được xây phía sau có ý nghĩa linh thiêng, quan trọng hơn các công trình phía trước. Bên cạnh đó, nghi môn được xây dựng đơn giản, nổi bật hơn cả là bốn cột hoa biểu có kích thước khá lớn khiến liên tưởng đến các nghi môn ở các ngôi đền thông thường. Nghi môn lại nằm phía ngoài của tam quan, như vậy yếu tố thờ thánh ở đây đậm nét hơn thờ phật hay nói cách khác kiến trúc của chùa Keo mang yếu tố là một ngôi đền thờ thánh đậm nét hơn là một ngôi chùa phật.
Căn cứ vào đặc điểm chạm khắc và phong cách tượng thì hệ thống tượng phật ở chùa Keo có niên đại thời Mạc, có thể nói đây là các tượng gỗ sớm nhất còn lại tới ngày nay ở nước ta. Phật điện khá phong phú với đủ các tượng phản ánh quan niệm thế gian trụ trì Phật pháp – cách thờ phật phải có hình mẫu cụ thể để phật tử hướng vào. Từ đó mà khởi tâm thành, lòng thiện và tin theo (6). Thứ tự sắp xếp của các pho tượng trong chùa Keo không theo trật tự như một số ngôi chùa khác do nhiều nguyên nhân, tuy nhiên có gần như đầy đủ các vị tượng trên phật điện. Ngoài ra còn nhiều các di vật, đồ thờ tiêu biểu khác như khám thờ, nhang án thời Lê, kiệu gỗ, bát bửu, thuyền rồng, chuông, khánh bằng đồng, bia đá, sắc phong cùng nhiều di vật quý khác… trong đó tiêu biểu nhất là bộ tượng Kim Cương (Hộ Pháp) và bộ chấp kích bằng gỗ được các nhà nghiên cứu đánh giá là một trong số những di vật còn đầy đủ và có niên đại sớm nhất ở nước ta hiện nay.
Mặc dù đã trải quan nhiều lần tu sửa, có lần sửa chữa nhỏ, có lần sửa chữa lớn nhưng cho đến nay chùa vẫn giữ nguyên được những nét kiến trúc thời mới khởi dựng.

Dân làng Hành Thiện cho rằng theo thuyết phong thủy, ngôi chùa có ảnh hưởng rất lớn đến truyền thống của làng, do vậy từ xưa đến nay làng có nhiều người đỗ đạt, vinh hiển, là nơi có nhiều nhà khoa bảng bậc nhất ở miền Bắc. Truyền thống đó đến nay vẫn được các thế hệ làng Hành Thiện gìn giữ, bảo tồn và phát huy. Do vậy nhân dân Hành Thiện vẫn giữ nguyên lòng kính trọng, tri ân vị thánh tổ của làng – thiền sư Dương Không Lộ. Chùa Keo cũng như lễ hội tại chùa Keo có vị trí rất thiêng liêng đối với dân vùng Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình… nói chung và làng Hành Thiện nói riêng.
Theo truyền thống của dân làng Hành Thiện, lễ hội chùa Keo được tổ chức hai lần theo âm lịch để tưởng nhớ thiền sư Không Lộ. Lần thứ nhất là hội xuân, được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng giêng âm lịch, có tục nam mặc giả nữ vào tế, lễ. Hội chính được tổ chức vào tháng 9 âm lịch. Trước đây mở hội từ 2 đến 16-9, nhưng từ năm 1925, 1926 tới nay, đời sống nhân dân chật hẹp nên rút ngắn thời gian đi chỉ từ mùng 8 đến 16-9 âm lịch hàng năm (7). Trong những ngày diễn ra lễ hội, tổ chức các diễn xướng nghi lễ, tế, rước; các trò diễn, trò chơi dân gian để ôn lại sự tích của thiền sư Dương Không Lộ liên quan đến nghề sông nước cũng như diễn xướng các truyền thuyết đề cập đến công tích của ngài.
Nhân dân làng Hành Thiện hiện còn lưu truyền câu ca dao về lễ hội truyền thống để luôn luôn nhắc nhở cháu con nhớ về cội nguồn, nhớ về tổ tiên mình;

Dù ai ngang dọc tây đông
Ngày rằm tháng chín hội ông nhớ về
Dù ai bận rộn trăm nghề
Ngày rằm tháng chín nhớ về hội ông (8).
Lễ hội chùa Keo là dịp để dân làng Hành Thiện thể hiện lòng tự hào về một nhân vật lịch sử, một danh nhân, anh hùng sáng tạo văn hóa đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối với quốc gia Đại Việt thời Lý; qua lễ hội dân làng tri ân vị thánh tổ, vị thành hoàng làng mình. Ngày nay, trước ngày tổ chức lễ hội chừng nửa tháng (khoảng từ 1-9) công việc được bắt đầu. Chùa được quét dọn sạch sẽ, phong quang, tượng thiền sư Dương Không Lộ cùng các nghi vật, nghi trượng, đồ thờ được lau chùi sạch sẽ, sắp xếp, sửa sang cẩn thận. Đèn nến được thắp sáng, khói hương nghi ngút lan tỏa khắp chùa. Hương, hoa, trà, oản quả được dâng lên. Càng đến gần ngày mở hội, không khí chuẩn bị càng trở nên khẩn trương, náo nhiệt, cờ hội được cắm suốt từ tam quan chùa, dọc làng Hành Thiện ra tận con sông đầu làng như thúc giục mọi người nhanh về dự hội càng làm cho không khí lễ hội trở nên khẩn trương, náo nhiệt. 25 lá cờ đại được dựng quanh làng làm nổi bật quang cảnh làng quê vào hội, kích thước mỗi lá cờ là 2,7 x 3,7m (xấp xỉ 10,70m2 kể dải cờ). Viền cờ và dải cờ có diềm hình lưỡi lửa. Hai mặt lá cờ một bên đề chữ Thánh cung vạn tuế, bên kia đề tên phe tham gia lễ hội. Trong khi cả làng đang chuẩn bị chu tất, các gia đình trong làng cũng sửa sang, quét dọn nhà cửa, may sắm quần áo đẹp, từ người già đến trẻ em, ai ai cũng náo nức mong chờ đến ngày chính hội.
Đến ngày 12-9, tất cả công việc đã được chuẩn bị chu tất để bước vào ngày hội với các nghi thức tế, lễ, diễn xướng, trò chơi truyền thống.
Do đặc điểm chùa Keo không có sư trụ trì tu hành, do vậy các công việc tế, lễ và thực hiện các nghi thức tôn giáo đều do các thày chùa đảm nhiệm (có tài liệu còn gọi là ông thống). Những thày chùa được dân làng tín nhiệm chọn, ngoài khả năng tổ chức, điều hành phải là người có uy tín trong dân, có tư cách đạo đức tốt, được mọi người nể trọng…
Vào những năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu là những năm phải trang hoàng chùa và tượng thì công việc chuẩn bị cho lễ hội tiến hành sớm hơn, khoảng từ mùng 8,9. Ngoài việc sửa sang chùa, cảnh sạch đẹp, gọn gàng, thay áo cho tượng thiền sư Không Lộ, vào những năm hạn hán hoặc thời tiết thay đổi bất thường, dân làng Hành Thiện còn làm lễ tắm tượng.
Theo truyền thống, lễ rước kiệu trong lễ hội xung quanh làng Hành Thiện. Cuộc rước bắt đầu khoảng 7 giờ sáng. Đi đầu là thuyền rồng, tiếp theo là hương án, long đình, kiệu đựng thùng sắc chỉ vua ban, kiệu chính (không có bài vị), kiệu hờ. Tổng cộng năm cỗ kiệu. Từ sân chùa, đoàn rước qua cổng phía đông, theo lối đường làng đến miếu chợ thì dừng lại (hoặc vòng ra lối trước đình mới dừng lại). Sau khi đoàn bơi trải về, đoàn rước tiếp từ miếu chợ hoặc từ đình, diễu quanh hồ về chùa, nhập cổng tây (xuất đông nhập tây), khi về đến chùa là đã quá nửa buổi chiều. Lúc đoàn rước đi qua đầu các dong, các dong phía trước và phía sau đều bày hương án, nghi ngút khói hương và hoa quả, sản vật để bái vọng thiền sư. Đoàn rước đi trên đường làng thì dưới sông vẫn diễn ra các cuộc bơi trải tạo không khí rất sôi động.
Ngày nay, hành trình phụng nghinh được rút ngắn lại, không rước quanh làng mà rước quanh đường ngang và quanh hồ bán nguyệt trước gác chuông, song về cơ bản vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, do hành trình ngắn, thời gian rước cũng rút ngắn lại nhiều, chỉ chừng hai, ba giờ đồng hồ là kết thúc.
Ngoài các lễ vật thông thường như hương, đèn, hoa, trà, oản, quả thì lễ hội chùa Keo còn có lễ vật hết sức độc đáo, đó là bánh dày. Điểm độc đáo là mỗi cặp bánh dày rất lớn và trọng lượng lên đến 0,5 kg/ chiếc. Tiêu biểu nhất cho sự tích diễn xướng thi tài, giải trí ở lễ hội chùa Keo là hội bơi trải được tổ chức vào ngày 12 và chiều 15 mang ý nghĩa kỷ niệm quãng thời gian làm nghề chài lưới của thiền sư Không Lộ. Điểm độc đáo của bơi trải ở Hành Thiện là bơi trải đứng (người cầm chèo ở tư thế đứng), khiến tốc độ của trải lớn hơn nhiều so với tốc độ bơi của các trải khác.
Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, vào các buổi sáng chiều và tối, các trò chơi, cuộc đấu, hát xướng được diễn ra xen kẽ, đều khắp cho đến khi kết thúc lễ hội. Người xem vây kín thành từng đám, chỗ chọi gà chỗ chơi cờ, tổ tôm, rộn ràng khắp sân chùa.
Có thể nói lễ hội chùa Keo Hành Thiện đã kết hợp được các yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại. Thông qua lễ hội, có thể thấy được sức sống mạnh mẽ của những phong tục tập quán và văn hóa làng.
Từ xa xưa thiền sư Dương Không Lộ đã trở thành nhân vật trung tâm của các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong vùng mà những dấu tích về cuộc đời của đức thánh vẫn còn hiển lộ đến ngày nay. Biểu hiện sinh động của truyền thuyết về thiền sư là lễ hội truyền thống được tổ chức từ 10 đến 15-9 hàng năm, tái hiện và trình diễn các sự tích liên quan đến cuộc đời đức thánh tổ. Do đặc điểm thiền sư Không Lộ không có đồ đệ kế tục mang tính chất truyền thừa, nên việc phụng thờ thánh do những vị mang tính chất như ông thống, đảm nhiệm và là việc của tất cả những người dân sống trong phạm vi ảnh hưởng của thiền sư, coi thiền sư là thánh tổ. Qua lễ hội, chúng ta phần nào có thể hình dung được sự thật lịch sử xung quanh nhân vật huyền thoại đã được lưu truyền rộng rãi trong dân gian qua bao lớp sương mù của thời gian và khói hương nghi lễ. Qua đó chúng ta có thể hiểu được vai trò của Phật giáo đối với vương triều nhà Lý và phục dựng nhân cách văn hóa tiêu biểu thời Lý; thời mà Phật giáo đóng vai trò là quốc giáo mà thiền sư Dương Không Lộ là một nhân cách văn hóa tiêu biểu của thời kỳ này.
_______________
1. Chu Huy, Về nhân thân hai vị Quốc sư thời Lý, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không, Văn hóa nghệ thuật số 8-2006, tr.71.
2. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990.
3, 4. Phạm Thị Thu Hương, Những ngôi chùa tiền phật hậu thánh ở vùng châu thổ Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Thông tin, 2007.
5. Trần Lâm Biền, Chùa Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1996, tr.116.
6. Trần Lâm Biền, Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.394.
7. Ty Văn hóa Nam Định, Hồ sơ di tích chùa Keo Hành Thiện, 1956.
8. Hội ông là tên gọi dân gian lễ hội chùa Keo.

Nguồn: Tạp chí VHNT số 333, tháng 3-2012
Tác giả: Khúc Mạnh Kiên


Xem tiếp


 

Khách ghé thăm

Flag Counter

Tìm kiếm trên sexanh.com

© 2010. Góp ý bài viết: comment trên trang Sẻ Xanh.com. Góp ý khác gửi mail cho Sẻ Xanh