Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì - Bức tranh kỳ vĩ


(Sẻ Xanh) - Từ trung tâm thành phố Hà Giang đi dọc theo Quốc lộ 2 và tỉnh lộ 177 chừng hơn 100km là tới huyện Hoàng Su Phì - một huyện vùng cao biên giới phía Tây của tỉnh Hà Giang.

Những ai từng đến đây đều ngạc nhiên và thán phục khi tận mắt ngắm nhìn lớp lớp những thửa ruộng bậc thang ngập tràn hoặc treo trên những núi đồi mờ sương. Một bức tranh toàn mỹ được con người vẽ trong không gian bao la và hùng vĩ của đất trời, thiên nhiên giữa vùng cao biên giới. Đây là kết quả sức lao động cần cù và sáng tạo của bao thế hệ đồng bào các dân tộc thiểu số trong cuộc chiến mưu sinh và tồn tại. Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì vừa được công nhận Di sản văn hóa Quốc gia.

Hoàng Su Phì - nơi hội tụ ruộng bậc thang

Nói đến ruộng bậc thang Hoàng Su Phì là nói đến hệ thống ruộng bậc thang gồm các điểm: ruộng bậc thang xã Bản Luốc và xã Sán Sả Hồ của người Dao áo dài và người Nùng; ruộng bậc thang xã Bản Phùng của người La Chí; ruộng bậc thang xã Hồ Thầu của người Dao đỏ; ruộng bậc thang xã Nậm Ty, xã Thông Nguyên của người Dao đỏ.

Hoàng Su Phì là huyện có địa hình phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi hệ thống các dãy núi cao và trung bình, thấp dần về hướng hai con sông chảy qua địa bàn là sông Chảy và sông Bạc. Địa hình nơi đây được phân chia thành 3 dạng: địa hình núi cao (khoảng 60.000ha), chạy dài theo đường địa giới tiếp giáp các huyện trong tỉnh và đường biên giới quốc gia, tạo thành đường vòng cung lớn bao quanh vùng; địa hình đồi núi thấp và trung bình (khoảng 1.900ha), nằm tập trung ở vùng giữa hoặc chạy dọc theo sông Chảy, sông Nậm Khòa, sông Bạc; địa hình thung lũng hẹp (khoảng 1.000ha), phân bổ rải rác trên các chỏm đồi núi, dọc theo các khe suối với những dải đất hẹp tương đối bằng phẳng.

Độ cao trung bình của địa hình nơi đây là 900m so với mực nước biển; có hai dãy núi cao nhất là ngọn Tây Côn Lĩnh (2.419m) và Kiêu Liêu Ti (2.402m). Đây là chất liệu để đồng bào các dân tộc qua bao đời vẽ nên bức tranh đẹp đa sắc màu mang tên “Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì.”



Ruộng bậc thang mùa cấy đẹp như tranh thủy mặc. (Ảnh: Tất Sơn/Báo ảnh Việt Nam)


Ruộng bậc thang là một loại hình canh tác tương đối phổ biến, hiện diện ở nhiều quốc gia trong khu vực. Ở Việt Nam, hệ thống ruộng bậc thang gắn liền với phương thức sản xuất của nhiều dân tộc thiểu số như Mông, Dao, Nùng, La Chí, Hà Nhì... sống ở miền núi phía Bắc. Mỗi dân tộc có tập quán khai vỡ đất, hình thức canh tác cũng như nghi lễ, tín ngưỡng sản xuất nông nghiệp riêng. Vì vậy, cái kỳ vĩ của hệ thống ruộng bậc thang như một bức tranh khổng lồ đẹp trong sự đa dạng về sắc màu, kích cỡ nhưng lại thống nhất trong bố cục.

Đến nay, cũng chưa ai khẳng định dân tộc nào đã nghĩ ra hình thức canh tác nông nghiệp trên ruộng bậc thang cũng như chưa có kết luận chính xác ruộng bậc thang ở Hoàng Su Phì có tự bao giờ. Tuy nhiên, dựa trên một số tài liệu nghiên cứu, người ta có thể nói rằng ruộng bậc thang ở Hoàng Su Phì đã có từ vài trăm năm trước. Trong báo cáo tại kỳ họp của Hội đồng Chính phủ Pháp năm 1915, có ghi: “Từ vài năm nay, trong vùng Hoàng Su Phì, nhất là với người dân sống ở vùng cao, việc trồng lúa nương trên đất khai hoang ven rừng hoặc trong rừng năng suất thấp..., họ đã quyết định làm ruộng bậc thang trên các đồi và sườn đồi, diện tích tới trăm km2... Ruộng mới được đưa vào canh tác từ 5-6 năm nay.”

Ruộng bậc thang và dấu ấn văn hóa mỗi dân tộc

Lịch sử hình thành ruộng bậc thang ở mỗi dân tộc có sự khác nhau do thời gian di cư, đặc trưng, tập quán canh tác sản xuất nông nghiệp nhưng ở ruộng bậc thang đều thể hiện sự kết tinh của sáng tạo và đức tính cần cù, kỹ năng canh tác sản xuất nông nghiệp ở trình độ cao. Việc mở đất, hình thành một thửa ruộng đều có quy trình tương đối giống nhau, tuy nhiên, từng công việc cụ thể lại tùy thuộc vào cách thức canh tác của mỗi dân tộc, do đó, tạo nên những nét riêng trên mỗi thửa ruộng bậc thang.

Người La Chí khi chọn đất làm ruộng thường chọn khu vực có thể tạo dựng trên đó nhiều loại công trình phục vụ cuộc sống. Chỗ đất bằng phẳng nhất dành để dựng nhà, làm sân, vườn, chuồng gia súc, nhà kho... Ruộng thường được tạo ở phía trên, dưới hoặc xung quanh nhà. Người Dao áo dài và người Nùng thường chọn khu vực gần nguồn nước trong phạm vi đất của mình để làm ruộng. Người Dao đỏ do chuyển từ hình thức canh tác nương rẫy sang làm ruộng bậc thang nên vùng đất họ lựa chọn để làm ruộng là những mảnh đất tốt nhất mà trước nay họ từng khai phá để làm nương.



Những đứa trẻ theo mẹ ra đồng để học cấy cày. (Ảnh: Tất Sơn/Báo ảnh Việt Nam)


Công việc khai phá ruộng với bất kỳ dân tộc nào cũng được tính toán kỹ lưỡng. Bà con thường dùng hình thức đổi công giữa các thành viên trong dòng họ hoặc làng bản để việc khai hoang vỡ đất được nhanh chóng, dễ dàng. Kinh nghiệm đúc kết được là với những khu ruộng cao, bà con phải giữ lại khoảng rừng trên đỉnh núi, đồi để lấy nước, chỉ khai phá từ lưng chừng đồi trở xuống.

Người Dao đỏ ở Hồ Thầu có lệ, cứ mỗi khoảng ruộng chừa ra một khoảng rừng nhỏ vây quanh để giữ đất khỏi bị sạt lở. Việc khai ruộng được tiến hành từ trên cao xuống thấp với những công cụ lao động giản đơn như cuốc chim, bừa gỗ, xẻng, dao quắm. Khi khai ruộng, người La Chí giữ lại lớp đất trên bề mặt để riêng ra. Khai ruộng xong, họ trải lớp đất đó lên trên và canh tác được ngay. Người Dao thì thường để ải ruộng qua vụ sau mới canh tác.

Làm bờ ruộng để giữ nước là công việc đòi hỏi kỹ thuật và sự khéo léo. Việc đắp bờ ruộng đòi hỏi ở người có kinh nghiệm thiết kế hệ thống các thửa ruộng bậc thang. Khoanh hẹp, khoanh dài hay ngắn và độ cao của ruộng phải dựa vào kinh nghiệm để tính toán hợp lý. Ruộng bậc thang của người La Chí thường có bờ ruộng rộng từ 20-30cm; bờ được làm ngay từ khi san ruộng. Đất làm bờ lấy ngay trong ruộng, được nén chặt, thường cao hơn mặt ruộng từ 15-20cm.

Ở những triền ruộng có độ dốc cao, có khe nước chảy, người ta thường dùng đá kè chặt ở những nơi thường bị xói lở; kè đá từ ruộng dưới lên cao bằng mặt ruộng trên rồi sau đó mới lấy đất đắp bờ trên mặt kè đá.

Người Dao đỏ lại thường lấy đất ở thành bờ ruộng phía trên để đắp bờ phía dưới. Họ không lấy đất trong ruộng làm bờ vì cho rằng đất trong ruộng là đất màu, đất tốt, phải được giữ lại để trồng lúa. Bờ ruộng của người Dao đỏ thường rất nhỏ, chỉ vừa đủ một bàn chân. Sau mỗi vụ thu hoạch, người Dao đỏ tự lo tu chỉnh bờ ruộng nhà mình và khi bắt đầu một mùa vụ mới họ lại phát sạch cỏ, tu chỉnh lại bờ ruộng một lần nữa.

Người Dao áo dài và Người Nùng, trong quá trình khai phá, tạo mặt bằng ruộng; đến vị trí dự định làm bờ ruộng, họ thường để lại một dải đất rộng chừng 20cm để làm bờ, mặt ruộng sẽ được san thấp. Khai phá ruộng xong, đồng bào lấy nước vào ngâm chân ruộng, bờ ruộng được chỉnh sửa qua để giữ nước.

Công việc làm bờ chỉ thực sự bắt đầu khi chuẩn bị bước vào mùa vụ. Bờ ruộng bậc thang của người Dao áo dài và người Nùng cũng chỉ rộng khoảng một bàn chân, cao khoảng 15cm. Đất đắp bờ lấy từ ruộng, bờ được đắp vuốt tròn, giữ cỏ ở bờ ruộng để tạo sự vững chắc chống nước mưa làm xói mòn.

Tìm và khai thác, sử dụng nguồn nước cho việc canh tác ở ruộng bậc thang là sự thể hiện tập trung của tri thức, kinh nghiệm của người dân địa phương và của các tộc người trong hoạt động canh tác nông nghiệp. Khai thác, sử dụng nguồn nước sao cho hợp lý, để có thể dẫn nước vào được ruộng cao, tiêu nước cho ruộng thấp; việc đưa nước vào ruộng…mỗi dân tộc có một cách làm khác nhau. Tùy thuộc vào địa hình, nơi có nguồn nước, khoảng cách từ nguồn nước đến chân ruộng để đồng bào quyết định dùng hệ thống mương máng dẫn nước phù hợp.

Di sản văn hóa

Về Hoàng Su Phì hôm nay, tận mắt chiêm ngưỡng ruộng bậc thang - một công trình lao động sáng tạo vĩ đại của cộng đồng các dân tộc vùng cao mới thấy hết sự cần cù, sáng tạo, trong "cái khó ló cái khôn" của đồng bào.

Ở xã Bản Phùng, cả xã có 133ha đất trồng lúa thì toàn bộ là đất ruộng bậc thang. Ruộng bậc thang chạy dài suốt 10km từ cầu suối Đỏ đi lên, quanh khu vực trung tâm xã. Đâu đâu cũng ruộng bậc thang. Ruộng treo trên lưng chừng núi, trên cả đường đi; ruộng có chỗ kéo từ đỉnh núi xuống tận khe suối với độ cao hàng trăm mét. Những cánh đồng ruộng bậc thang nơi đây được đánh giá vào dạng ruộng bậc thang đẹp nhất Việt Nam.

Xã Bản Luốc và Sán Sả Hồ có địa hình là núi đất và độ dốc vừa phải nên nên nhiều ruộng bậc thang. Nơi đây, đâu đâu cũng có ruộng bậc thang theo hình lượn sóng và cánh cung. Ở xã Hồ Thầu là những cánh đồng ruộng bậc thang mênh mông, cao ngút tầm mắt. Đồi núi được chọn làm ruộng thường có độ dốc không lớn, có độ rộng lớn hơn, đều hơn...

Quanh năm, ruộng bậc thang lúc nào cũng đẹp, thấm đẫm một màu vàng khi mùa thu hoạch lúa, hoặc màu xanh mơn mởn điệp trùng trên cả trăm bậc thang khi lúa vào thì con gái, màu trắng đục của nước khi các cánh ruộng vào mùa ngâm ải đất...

Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, một công trình lao động sáng tạo của bà con các dân tộc vùng cao nơi biên giới cực Bắc của Tổ quốc có giá trị lịch sử, văn hóa và là điểm nhấn trên bức tranh cảnh quan đa sắc màu về một vùng cao biên giới, nơi có 17 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bao đời nay tồn tại và phát triển./.

Công Hải (TTXVN)


Xem tiếp


Đáy Vịnh Hạ Long có gì bí mật?


(Sẻ Xanh) - Trong suốt nhiều thế kỷ, Hạ Long là điểm trung chuyển gốm sứ từ nội địa ra nước ngoài. Trong hàng ngàn, hàng vạn con tàu ra vào ngày đó, liệu có con tàu nào xấu số nằm lại đáy Vịnh?

Gần đây, tại vùng Bình Châu, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), cách bờ chỉ khoảng 100m, ngư dân địa phương đã phát hiện một con tàu đắm chở đầy đồ gốm sứ cổ. Theo giám định của các chuyên gia cổ vật, số cổ vật gốm sứ trên gồm bát, đĩa, vò, âu, chậu… là đồ gốm sứ men ngọc thời Nguyên (TK 13-14). Căn cứ tro bám trong san hô và chồng bát đĩa, các chuyên gia nhận định khả năng tàu bị cháy dẫn đến chìm…

Vậy còn ở Vịnh Hạ Long thì sao? Trong suốt nhiều thế kỷ, Hạ Long là điểm trung chuyển gốm sứ từ nội địa ra nước ngoài. Trong hàng ngàn, hàng vạn con tàu ra vào ngày đó, liệu có con tàu nào xấu số nằm lại đáy Vịnh?

Tính đến nay, các nhà khảo cổ đã xác minh, thống kê được hàng chục bến thuyền cổ trong hệ thống Thương cảng Vân Đồn, tồn tại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 17. Các bến này không chỉ phân bố cả các đảo phía ngoài, ven bờ mà còn rải rác một số vụng, đảo trong vùng lõi của di sản Vịnh Hạ Long. Hàng chục năm qua, đã có rất nhiều cuộc khảo sát ven bờ, cửa sông, trên các đảo của các nhà khảo cổ trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các cuộc nghiên cứu khảo cổ học dưới đáy Vịnh Hạ Long gần như chưa được thực hiện.

Đáy Vịnh Hạ Long có gì bí mật?
Lon sành thời Mạc (TK 16 - 17) do ngư dân làng chài Vung Viêng vớt được dưới đáy Vịnh Hạ Long năm 2009.

Cách đây mấy năm, một số ngư dân ở Vân Đồn làm nghề lặn biển đã từng mò được cổ vật tại một luồng lạch thuộc Vịnh Bái Tử Long. Tại các làng chài Ba Hang, Vung Viêng, ngư dân ở đây lặn mò hải sản vẫn thường nhặt được những lon sành, bát, đĩa gốm có niên đại thời Mạc (TK 16-17). Những dấu vết đó cho thấy giả thiết có những con tàu cổ bị đắm trên Vịnh Hạ Long là có cơ sở. Tuy nhiên, lại có ý kiến cho rằng, với mật độ, tốc độ dùng lưới quét, lưới cào của ngư dân trên Vịnh Hạ Long như hiện nay, khó có con tàu đắm nào dưới đáy vịnh mà không bị phát hiện (?).

Còn nhớ trên tạp chí Xưa và Nay, số tháng 7/2007 của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, có đăng bài của tác giả Hồ Đắc Duy đề cập tới sự kiện đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị quân và dân nhà Trần tiêu diệt trên Vịnh Hạ Long năm 1288. Tác giả đặt câu hỏi vậy những xác thuyền, vật dụng đi theo nó hiện giờ nằm ở đâu? Căn cứ, đối chiếu với các tư liệu lịch sử của cả Việt Nam và Trung Quốc và trên thực tế địa lý, địa hình của Vịnh Hạ Long, tác giả cho rằng trận hải chiến trên xảy ra vào khoảng ngày 3 tháng 1 năm 1288 cho đến ngày 6 tháng 1 năm 1288. Vị trí diễn ra trận đánh quyết định giới hạn ở khoảng toạ độ 107 độ 23 phút kinh đông và 20 độ 44 phút vĩ bắc, tức là ở khoảng giữa các đảo Thượng Mai, Hạ Mai, Phượng Hoàng và đảo Nấc Đất. Tác giả kết luận, nếu tìm dưới đáy biển ắt sẽ có xác thuyền, ít nhất cũng là vài cái chén, tô, lu, vại, gươm giáo, tiền đồng của quân Nguyên - Mông vào thế kỷ XIII… Những gì mà tác giả Hồ Đắc Duy đưa ra là khá thú vị. Nó không mới nhưng lại chưa bao giờ được ai, cơ quan nào đặt vấn đề quan tâm, tìm hiểu.

Thời người Pháp chiếm đóng khu mỏ Quảng Ninh, mặc dù có tàu sắt tiên tiến, hệ thống thiết bị phục vụ đi biển tốt kèm theo, nhưng người Pháp vẫn để xảy ra các vụ đắm tàu trên Vịnh Hạ Long. Tại khu vực biển gần hòn Con Cóc và làng chài Cửa Vạn có một con tàu sắt thời Pháp bị đắm. Mấy năm qua, thậm chí đến gần đây vẫn có một nhóm người Hải Phòng đưa thiết bị ra lặn xuống cắt lấy sắt để bán.

Được biết, khảo cổ học dưới biển đối với Việt Nam cho tới nay vẫn là một ngành khoa học mới mẻ, do chúng ta thiếu các phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại. Vịnh Hạ Long cho tới nay hầu như chưa có cuộc khảo sát khảo cổ dưới nước nào được thực hiện, một phần cũng bởi lý do trên. Đằng sau những câu hỏi về xác tàu đắm của quân Mông Cổ, thì ngược lại chính những bí mật chưa được giải đáp ấy lại góp phần tạo nên những câu chuyện kỳ bí của Vịnh Hạ Long, làm tăng tính hấp dẫn của di sản, kỳ quan.

Theo Đại Dương
 Báo Quảng Ninh

 


Xem tiếp


Mùa thu vàng trên ruộng bậc thang


(Sẻ Xanh) - Bát Xát - một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai - những năm gần đây đã trở thành “thương hiệu” du lịch nổi tiếng với du khách trong và ngoài nước, nhất là vào mùa lúa chín (tháng 9, 10).

Lên Bát Xát, du khách sẽ rất ngạc nhiên vì giữa vùng thâm sơn cùng cốc lại có những thửa ruộng bậc thang kỳ vĩ và đẹp đến mê lòng. Ruộng bậc thang có ở hầu hết các xã nhưng đẹp nhất là ở Ý Tý, A Lù, Khu Chu Lìn, Ngải Thầu, A Mú Sung... Lẫn trong dòng người đổ về Bát Xát, ngoài các vị khách du lịch còn có rất đông những nhiếp ảnh gia tới đây để được thu vào ống kính những khuôn hình đẹp say đắm lòng người.
 















Phạm Ngọc Bằng


Xem tiếp


Về làng Nôm, tìm sự yên bình nơi làng Việt cổ


(Sẻ Xanh) - Làng Nôm – ngôi làng Việt cổ còn lưu giữ được nhiều công trình kiến trúc cổ, cảnh quan thiên nhiên và phong tục tập quán vẫn mang đậm dấu ấn của một làng Việt cổ với quần thể di tích bao gồm những ngôi nhà cổ, chợ Nôm, cầu Nôm cùng các ngôi từ đường cổ của 7 dòng họ lớn trong làng.
 
Làng Nôm cách Hà Nội 30km về hướng đông, các gia đình còn truyền nhau về việc làng ra đời từ 300 năm trước, xưa thuộc phủ Thuận Yên, trấn Kinh Bắc, nay thôn thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, là ngôi làng cổ duy nhất của phố Hiến còn tồn tại cho đến nay.
 
Không rõ cái tên làng Nôm bắt đầu từ đâu, chỉ biết theo các cụ cao niên, ngày xưa con gái ở làng cứ đến 16 tuổi phải nghỉ học, đi buôn bán nuôi chồng ăn học, đỗ đạt làm quan. Khi lấy chồng, họ phải cung tiến cho làng 20 mâm đồng hoặc làm vài chục mét đường làng bằng gạch đỏ. Bởi vậy, ngày nay trên cổng làng vẫn còn khắc ba chữ “Đồng Cầu Nôm” như một lời nhắn nhủ về lịch sử của làng.
 
Khu vực trung tâm làng Nôm có bối cảnh đẹp đẽ, cân đối với ao lớn rộng hàng chục mét, dài đến khoảng 200m trước cổng đình Tam Giang - nơi thờ vị tướng thời Hai Bà Trưng.
 
Khung cảnh nên thơ với cây đa, giếng nước, sân đình đặc trưng của những ngôi làng Việt ở miền Bắc.
 
Ao làng được bao quanh bởi các ngõ xóm và các từ đường, miếu mạo cũng như những thửa vườn nhỏ xinh của người dân trong làng.
 
Lớp mẫu giáo nằm ngay bên cạnh đình Tam Giang, ở khu vực đầu làng Nôm.
 
Những con đường quanh đình cũng như lớp mẫu giáo đều được lát gạch và đã phủ một lớp rêu thời gian.
 
Đào ao thả cá ngay tại nhà, một hoạt động cải thiện đời sống cũng như tăng sự điều hòa của cảnh quan môi trường.
 
Con đường chính bao quanh chiếc ao làng.
 
Dọc hai bên ao là một số ngôi nhà thờ họ và nhà ở kiểu cổ, xen lẫn một số nhà đã có cải tiến và xây mới nhưng vẫn nằm trong không gian xanh và không xây cao nên không phá vỡ cảnh quan.
 
Cả làng còn hơn chục nhà cổ và 7 nhà thờ của các họ. Làng từng có đình cũ xây vào thời hậu Lê, về sau đình mới được xây thời Nguyễn, bề thế.
 
Một ngôi từ đường được xây từ năm 1948.
 
Một nhà thờ họ.
 
Còn tồn tại khá nhiều những chiếc cổng nhà với các niên đại khác nhau được xây từ những năm 30 của thế kỷ 20.
 
Một chiếc cổng được xây năm 1935.
 
Một chiếc cổng được xây năm 1945 đã bị bít lại.


Xem tiếp


Lãng đãng thoáng cao nguyên Hà Giang


(Sẻ Xanh) - Mùa thu đến, sương giăng mờ ảo trên những cánh đồng mướt xanh bắt đầu lốm đốm ngả sang màu vàng óng của những bông lúa chín, có lúc ánh nắng le lói lại chiếu xuống những thung sâu…

Đó cũng là lúc một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, rực sắc như một cảnh trí trên tấm thêu của cô gái người Mông khéo tay bắt đầu hiện ra. Hà Giang say lòng người cũng bởi những bức tranh dìu dặt, dấn dá níu chân người lữ khách như thế. 

Núi đôi Quản Bạ, cách thành phố Hà Giang khoản 40km, nằm ở độ cao trên 1000 m so với mực nước biển, địa danh này thường được gọi là  "Núi đôi" hay "Núi Cô Tiên".


Những thủa ruộng tạo thành những thung xanh nối tiếp nhau 

Hay những ruộng lúa bậc thang tầng tầng lớp lớp

Rất dễ bắt gặp những sơn nữ cười tươi trong nắng mùa thu

Dọc những con đường quanh co bên dốc núi, du khách dễ bắt gặp khung cảnh hài hòa của núi đá với miên man những thảm hoa dại trải khắp chân núi. 

Không chỉ hút tầm mắt bởi những khung cảnh kỹ vĩ, nơi đây còn khoe bày vẻ đẹp của những kỳ hoa, dị thảo vô cùng quyến rũ.

 
Từ Quản Bạ, chúng ta sẽ đặt chân đến cao nguyên đá Đồng Văn

Đá vừa là một phần khắc nghiệt của thiên nhiên, nhưng đồng thời cũng là một kỳ quan hiếm có của Đồng Văn.

Nơi đây, cuộc sống yên bình, phẳng lặng như những phiến đá trơ gan qua ngày tháng. 

Đôi vợ chồng già lên nương, cuộc sống trên những thửa ruộng lởm chởm đá khiến cho việc canh tác của người dân trở nên vô cùng khó khăn

Cuộc sống của người dân cũng chầm chậm trôi đi

Chợ phiên trên núi. Không chỉ là nơi mua bán, phiên chợ còn là một phần trong bản sắc văn hóa của người miền núi. Họ gặp gỡ nhau để chuyện trò, đặc biệt không thể thiếu màn mời rượu.



Đèo Mã Pì Lèng, tên gọi được hiểu theo theo ngôn ngữ vùng biên giới, là "sống mũi ngựa". Để mở được con đường mỏng như một nét vẽ ấy, hàng vạn thanh niên xung phong và bà con thuộc 16 dân tộc Mông, Tày, Dao, Pu Péo, Lô Lô… phải mất 6 năm xây dựng với gần 3 triệu ngày công đục khoét trên gần 3 triệu mét khối đá mà hầu hết trong đó là lao động thủ công không có sự hỗ trợ của máy móc. Toàn bộ con đường Hạnh Phúc được hoàn thành vào 15.6.1965. 


Từ con đường gần nhất xe máy có thể di chuyển được, đến những căn nhà ở trong thung sâu này, người miền xuôi phải đi mất gần 1 tiếng đồng hồ mới chạm chân đến. Thế nên, họ rất hồ hởi khi được ai đó tới thăm. 

Từ đây phóng tầm mắt nhìn xuống, có thể thấy một bức tranh tràn ngập màu sắc của thiên nhiên được bàn tay lao động của người dân cần mẫn tạo thành. 

Len vào những sóng lúa ấy là những ngôi nhà lưa thưa


Một địa danh không thể bỏ qua khi đến với Hà Giang đó chính là cột cờ Lũng Cú. Trong ảnh là đường lên với cột cờ. Cột cờ Lũng Cú được dựng trên đỉnh núi Rồng thuộc xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, ở độ cao gần 1.700m so với mặt nước biển, được xây dựng lại, hoàn thành ngày 1/12/2002. Cột cờ có chiều cao 33,15m, trong đó phần chân cột cao 20,25m, đường kính ngoài thân cột rộng 3,8m.


Xem tiếp


 

Khách ghé thăm

Flag Counter

Tìm kiếm trên sexanh.com

© 2010. Góp ý bài viết: comment trên trang Sẻ Xanh.com. Góp ý khác gửi mail cho Sẻ Xanh