Chị Hai Cua Đồng
(Sẻ Xanh) - Vùng quê nhỏ bé nằm bên bờ sông Tiền này được thiên nhiên ưu đãi về địa
thế. Cây trái và đồng ruộng do phù sa bù đắp quanh năm thành một vùng
trù phú. Nơi đây người ta không cần biết đến địa chỉ vẫn có thể tìm được
nhà nhau một cách dể dàng bằng phương thức hỏi thăm tên.
Vì thế khi hỏi nhà Hai Cua Đồng thì sẽ có ngay một cậu nhóc dẫn bạn đến tận nhà. Không phải chị Hai là người nổi tiếng hay giàu có gì, thậm chí chị khá nghèo so với những người khác và hình thức thì cũng không hơn ai. Không nhiều người biết tên thật của chị nên ngày từ nhỏ, khi chị chuyên đi bắt cua bán cho mấy bà bún riêu ở chợ, cái tên Hai Cua Đồng có từ đó.
Theo lời bà Tư kể thì chị hai khi còn nhỏ là đứa trẻ nhìn xinh xắn như bao đứa con nít khác. Rồi nhà chị xảy ra hỏa hoạn, ba chị mất mạng, chị cũng bị lửa táp phỏng nặng. Sau đó di chứng xảy ra khiến chị bị nhiều vết sẹo lớn và chân rút gân khiến dáng đi của chị không bình thường, ngay thẳng như người khác. Năm chị mười lăm tuổi, má chị qua đời bởi nhiều năm đau bệnh, bỏ chị trơ trọi trên cõi đời với mái nhà xiêu vẹo. Tùy hình dáng xấu xí làm nhiều đứa con nít khác khiếp sợ và trải qua nhiều biến cố như thế nhưng chị Hai không lấy làm buồn phiền. Ai cũng nhìn nhận chị là người tốt với chòm xóm, nhà ai có chuyện, chị tới giúp như người nhà của mình.
Năm chị 27 tuổi, buổi chiều như bao ngày chị đi bắt cua về rồi đem giao cho mấy bà ở chợ. Nhưng khi trở về nhà vào chập choạng tối, ngang qua khu nghĩa địa, chị nghe tiếng con nít khóc. Chị sởn cả tóc gáy khi nhớ đến những câu chuyện bà con kể quanh nghĩa địa này và thầm nghĩ lẽ nào có ma... Chị cố gắng bước nhanh. Tiếng con nít vẫn vọng theo gió kéo bước chân chị. Chị đắn đo "lý nào sớm vậy có ma" . Ma có nhát ai chứ làm sao dám nhát chị bởi chị còn xấu hơn nó kia mà. Hay là tiếng mèo hoang kêu rồi thần hồn nát thần tính nhưng lỡ đó là con nít thật thì sao?
Đắn đo mãi, cuối cùng chị quyết định bước vào nghĩa địa và lắng nghe xem tiếng khóc phát ra từ đâu. Chị đã định được hướng và đi về phía chòm mả của ông Cả Thượng được xây kiên cố, khang trang ở một góc nghĩa địa. Ngay giữa chòm mả ấy có một đống vải trơ trọi và tiếng khóc phát ra từ đó. Chị Hai rón rén bước đến với sự sợ sệt. Trời chập choạng tối, ở giữa nghĩa địa vắng vẻ cộng với tiếng trẻ con khóc khiến khung cảnh có cái gì đó ma quái làm chị nổi cả gai ốc.
Gom hết can đảm, chị Hai thò tay vào đống vải ấy, khi chạm được cái khối thịt tuy có phần lạnh nhưng chị Hai xác định đó là da thịt con người chứ chẳng phải ma quái. Điều đó khiến chị mạnh dạn và giở những lớp vải phía trên ra. Đúng như chị nghi ngờ, chính giữa là một đứa con nít đang bị kiến bu cắn đỏ cả người, có lẽ nó khóc từ lâu lắm nên tiếng khóc bắt đầu khàn đặc. Chị phủi kiến và cứ như thế ôm nó đi về nhà.
Nghe tin chị Hai nhặt được đứa con nít ở chòm mả một cách kỳ lạ như vậy, người ta kéo lại chật cái chòi của chị. Vài bà dì thương xót, phụ chị ủ, ẵm, pha sữa cho nó... Theo kinh nghiệm của họ, thằng bé sinh ra chưa tới một tháng. Đôi người đoán non, đoán già, ai mà bỏ con chắc cũng có nỗi khổ. Người thì rủa kẻ nào ác đức, "núm ruột" mà còn đem bỏ, nhỡ chị Hai không tới kịp, nó chết thì sao? Duy có chị Hai không bàn tán cũng chẳng ý kiến gì, chị ngồi yên lặng bên cạnh thằng bé, rờ nhẹ cánh tay của nó như sợ làm nó đau. Nhìn vết kiến lửa cắn chưa phai, chị ứa nước mắt .
Vốn đã nghèo, chị Hai tự nhiên "được thêm" cái khổ. Bởi chị ăn hà tiện được nhưng sữa cho thằng bé thì hà tiện làm sao? Bị cái tật ở chân, chị đi đứng đã khó khăn, còn ẵm thêm thằng bé. Nhiều người lắc đầu xót thầm cho chị. Bây giờ chị Hai kiêm luôn cái nghề lượm ve chai. Thấy cái gì có thể bán được, chị nhặt nhạnh đem về. Bà con thương chị, có cái nồi nhôm bể, hũ. lọ... cũng kêu chị để cho. Coi như cách phụ chị nuôi con bởi bà con ai cũng nghèo chứ khá giả gì đâu.
Vất vả, thiếu thốn là thế nhưng thằng bé bụ bẫm, ít bệnh vặt. Trộm vía trời thương nó, nó háo sữa và lớn lên thấy rõ. Năm nó giáp thôi nôi có ông người Hoa ở xóm chợ nhà toàn con gái, không con trai nên ngỏ ý muốn xin nó làm con. Ông hứa nếu chị Hai đồng ý, ông cho chị Hai tiền đủ mua ba công đất hẳn hoi. Nhiều người khuyên chị nên cho nó đi đỡ khổ thân chị, thân nó cũng hưởng sung sướng. Ba công đất đâu có ít ỏi gì. Với người như chị Hai, đó là niềm mơ ước. Nhưng chị Hai không giải thích hay trả lời gì, chị chỉ lắc đầu khi nhìn nụ cười của nó.
Năm tháng trôi qua, thằng bé tới tuổi đi học. Chị Hai càng chồng chất vất vả, chị làm không ngừng tay. Miếng đất nhỏ sau nhà chị biến thành vườn rau. Gà gáy sáng, chị đã ra đó. Có lẽ thấu hiểu lòng chị, thằng bé Hải (tên chị đặt cho nó) học rất giỏi. Ngoài giờ học, nó không chạy giỡn như bao đứa trẻ khác. Chị đi đâu, nó theo đó như bóng với hình. Chị làm gì, nó cũng phụ.
Năm nó mười một tuổi được lãnh thưởng học sinh giỏi toàn trường cuối cấp. Chị Hai nghỉ bắt cua một bữa, diện cái áo mới nhất đi coi con nhận thưởng. Nhìn nó đứng trên bục cao mà chị thầm hạnh phúc. Chị nghĩ không biết nó có nhận ra chị giữa đám người lố nhố thế này không?
Buổi lể tan, nó ôm phần thưởng chạy ào tới chị, hỏi :
- Má đứng lâu mệt không má.
Chị lắc đầu cười, lau mồ hôi trên trán rồi lật đật lấy chai nước đem theo đưa cho nó uống. Sau lưng chị có tiếng xì xào:
- Thằng nhỏ trắng trẻo, lớn con đẹp trai mà má nó nhìn thấy ghê vậy? Đúng là mẹ cú đẻ con tiên.
Một tiếng khác đáp lời:
- Con đâu mà con, lượm đó. Bà̉ làm gì mà đẻ được vậy. Thằng nhỏ vô phước, xui khiến gặp bà sống khổ muốn chết. Gặp người khác thì đỡ chút.
Chị hai bủn rủn tay chân, nụ cười tắt hẳn, chị nói với thằng Hải :
- Trễ rồi, về thôi con, má còn nhổ đám rau chiều nay.
Đang đi, thằng Hải chợt hỏi chị:
-Má, người ta nói má lượm con phải không má?
Điều chị hai sợ nhất cuối cùng đã xảy vào lúc này. Chị đã biết trước có ngày này nhưng không ngờ nó sớm thế.
- Chị chảy nước mắt gật đầu.
Thằng Hải hỏi chị tiếp:
- Má con là ai, sao bỏ con hả má?
Chị hai lắc đầu nói trong nước mắt:
- Má không biết... Nhưng má biết má thương con hơn mọi thứ trên đời.
Thằng Hải cắn môi im lặng rồi hỏi tiếp:
- Sao má khóc vậy má?
Chị lấy tay áo lau nước mắt nói:
- Con lãnh thưởng, má mừng, má khóc, ráng học cho sau này đỡ khổ, nghe con. Đừng có dốt, không biết chữ như má, cực khổ.
Thằng Hải nhìn mặt chị nói một cách mạnh dạn:
- Má đừng buồn, đừng khóc nữa má. Con lớn, con đi làm kiếm tiền, cất nhà đẹp cho má ở nghe má.
Chị xoa đầu nó cười...
Học hết cấp hai ở xã, Hải phải lên thị trấn đi học vì xã không có trường trung học. Từ thị trấn về nhà hết tám cây số, thương con, chị Hai kêu nó ở trọ trong ký túc xá, để khỏi phải đạp xe hằng ngày vất vả. Nó kiên quyết lắc đầu.
Ngày hai buổi, nắng hay mưa, nó cũng đạp xe đi về như thế. Ngoài giờ học, công việc vườn rau nó làm thay chị. Nhưng năm nào nó cũng đạt danh hiệu học sinh giỏi. Hàng xóm hay lấy nó làm gương cho con mình.
Người ta mừng cho chị có chỗ dựa an ủi tuổi già. Nó không cho chị bắt cua nữa nhưng những buổi sáng nó đi học, chị vẫn lén lút đi. Chị muốn chắt bóp thêm để cho nó ăn học bởi chị nghe người ta bảo, học trên Sài Gòn tốn kém lắm.
Sáng hôm nay, đầu xóm, tụi con nít "bu" lại, nhìn ngó chỉ trỏ một cái xe hơi đang đậu. Trong xe, ở băng ghế sau còn có một bà ăn bận thật đẹp, người cứ thơm phưng phức. Phía trước bên lề, có một bà kia đang hỏi lũ nhỏ nhà chị Hai Cua Đồng ở đâu chỉ giúp bà, bà cho tiền mua bánh. Gì chứ, chị Hai Cua Đồng, ai mà không biết, thế là lũ nhỏ nhao nhao chỉ trỏ. Một lát sau thì chiếc xe dừng trước nhà chị Hai. Bà kia nói với người đàn bà ngồi băng ghế sau:
- Dạ em hỏi kỹ rồi bà chủ, không sai đâu. Cậu nhỏ bây giờ học lớp mười. Mười sáu tuổi ạ! Ở xóm này, ai cũng biết chị ấy lượm được con hết. Em đã điều tra rõ ràng rồi.
Người đàn bà đẹp thở dài, đưa khăn lên lau giọt nước mắt vừa tràn ra.
Buổi trưa, thằng Hải đi học về nhà như thường lệ. Điều đập vào mắt nó là cái xe hơi đang đậu trước sân. Chưa hết ngạc nhiên, bước vào nhà, nó thấy má nó đang khóc. Kế bên có một người đàn bà lạ cũng đang sụt sùi. Bên bộ ván có một người đàn ông và một người đàn bà nữa đang ngồi. Khi nó bước vô nhà thì bà đó nói:
- Dạ, cậu Hải về kìa bà chủ.
Nó cởi nón, gật đầu chào theo thông lệ và hướng ánh mắt về chị Hai thay câu hỏi ai vậy. Bởi xưa giờ, trừ người ta đến mua rau nhà nó, có khách bao giờ đâu mà mua rau cũng đâu ai sang trọng vậy.
Chị Hai kêu nó:
- Đi rửa mặt cho mát rồi vô má biểu.
Khi nó trở vô, chị kéo nó ngồi xuống kế bên nói:
- Dì này là má ruột của con đó. Má ruột của con tìm con vất vả lắm! Lại gọi má đi con...
Nói tới đó thì chị Hai nghẹn lời vì nước mắt.
Người đàn bà kia òa khóc lớn và nắm tay nó nói :
- Má xin lỗi con, không phải má bỏ con đâu. Bao năm nay má ăn không yên, ngủ không ngon, kiếm tìm con...
Thằng Hải nghe như đất dưới chân nó sụt xuống vậy. Dù từ lâu, nó hiểu nó không do chị Hai sinh ra nhưng nó không ngờ rằng má ruột đến tìm nó trong hoàn cảnh này. Trong lơ mơ, giữa những đoạn kể đứt quãng vì nước mắt của người má ruột nó, nó nghe câu được câu mất là:
- Má con nhà giàu, sống cùng cha và mẹ kế. Má thương ba con từ thời đi học nhưng ba con nhà nghèo. Bà mẹ kế muốn má lấy cháu ruột của bà ta vì gia sản của ông ngoại. Khi má sinh ra con, vì sợ ông ngoại, má phải giao con cho bà ta. Bà ta nói sẽ đưa con cho người khác nuôi giùm nhưng thật sự bà ấy sai người vứt con đi. Sau đó, cả gia đình ngoại con đi nước ngoài. Trời thương, cuối cùng ba má gặp lại nhau. Sau khi mẹ kế qua đời, ông ngoại con cũng hiểu ra, không ngăn cản như trước. Hiện con còn có thêm một đứa em trai nữa. Khó khăn lắm má mới tìm được tung tích con. Vì ông ngoại con bệnh già nên ba con không về cùng má được. Gặp lại con như vầy, ông ngoại với ba con mừng lắm! Con thương má, đừng trách má tội nghiệp.
Khi má ruột kể thằng Hải nghe như vậy, chị Hai tới cái tủ thờ, lục lọi gì đó. Khi nó quay qua hỏi chị Hai:
- Như vầy là sao hả má?
Chị Hai mếu máo, đúng rồi đó con, má con nói đúng, cái bớt son của con và cái lắc bạc đeo ở chân con. Khi má mang con về không cho ai biết bí mật này hết. Má gói giữ đây, định con lớn, giao cho con để con biết gốc tích của mình. Má con khổ bao năm nay rồi.
Hải ngỡ ngàng sự thay đổi khi cuộc đời mình tự nhiên có thêm bà má, ba, em trai. Trước khi má ruột đi về, ba nói chuyện điện thoại với nó, bảo sẽ nhanh chóng đón nó qua đó cho trọn gia đình. Nó mừng vì mình có gia đình như bao người chứ không trơ trọi. Xóm làng ai cũng vui lây. Một bước sung sướng, con nhà giàu. Nhưng nhiều lần nó cũng dò ý chị Hai khi nó đi rồi chị làm sao? Nó hy vọng chị ngăn cản nó nhưng lần nào chị cũng nói:
- Đi đi con cho có tương lai, qua đó được ăn học, đỡ cực khổ, sống với má mười mấy năm cực khổ rồi con. Ráng học thành người, trả hiếu má chưa muộn, má còn khỏe, má lo được, không sao hết con, còn chòm xóm bà con.
Nó cũng yên tâm phần nào vì không thấy chị Hai buồn phiền gì hết. Nhưng có một lần, nó đi học về sớm, khi ra vườn, nó thấy chị Hai vừa tưới rau, vừa quệt nước mắt. Cái dáng xiêu vẹo của chị in trong trời chiều như một dấu chấm hỏi.
Má nó về, dẫn nó đi làm thủ tục. Sau khi đi tới đi lui cũng thở phào nhẹ nhõm khi cầm trên tay cái visa. Chiều ngày mai thì nó theo má về gia đình thật của mình. Nhưng sao nó không thấy vui hay háo hức như nó nghĩ. Ngược lại, nó thấy như nó đang đánh mất cái gì đó quý lắm! Nó ngồi trước sân, miên man suy nghĩ, nhìn ra cây xoài đang ra trái non. Nó thấy lại hình dáng ngày xưa của mình với má.
Hai má con cùng trồng rau. Nó nhớ cái dáng xiêu vẹo khi má xách thùng nước, nhớ đôi tay má chai sần và đầy vết cua kẹp chứ không mềm mại, mát rượi như tay má ruột nó. Bỗng tiếng chị Hai vang lên, cắt ngang dòng suy nghĩ của nó:
- Ngồi chi ngoài đó gió lạnh đó con. Tranh thủ ngủ sớm, mai má con xuống đón sớm đó. Vô đây má có chút chuyện dặn con.
Khi nó ngồi ngay ngắn trên bộ ván, chị Hai miệng nói, tay kéo cổ nó xuống:
- Sợi dây chuyền này má tính để dành cho con sau này đi học, có cần thì dùng, bây giờ má nghĩ không cần nữa rồi. Má cho con làm kỷ niệm. Má biết má con dư giả nhưng vạn nhất, chuyện gì con cũng có cái phòng thân. Má nghe mấy dì ngoài chợ nói xứ đó lạnh lắm! Con nhớ cẩn thận sức khỏe, con hay bị khò khè khi chuyển gió. Mới lại, về bên đó, ăn nói từ tốn, ngoan ngoãn cho người ta thương ha con. Cố gắng học nghe con...
Thằng Hải "nghe" vài giọt nước nhỏ lên cổ và giọng má đang nghẹn lại, nó biết má đang khóc. Nó an ủị:
-Dạ, con biết rồi má. Nhưng sợi dây má giữ đi, phòng thân có mình má bên đây, lỡ má đau bệnh. Con đi vài năm, con về với má liền.
Miệng nói, tay nó lần muốn tháo sợi dây chuyền ra. Chị Hai giơ tay ngăn lại, nói tiếp:
- Đừng lo cho má, từ đó tới giờ má cũng sống vậy. Má con có ngỏ ý gởi cho má số tiền ở trong ngân hàng phòng thân. Nhưng má bảo má không sao, để số đó lo cho con học hành. Giờ nhà mình cũng đâu khó khăn như xưa.
Sáng sớm, khi má ruột xuống đón Hải đi, bà con lại đến đưa tiễn, chúc nó lên đường bình an. Ai cũng ngỡ chị Hai sẽ khóc lóc nhưng trái với thông lệ, chị tươi cười vui vẻ, giống như thằng Hải đi học bao ngày chứ không phải là đi xa không biết bao lâu mới về. Khi xe chạy rồi, bà con ai về nhà nấy, chỉ còn duy nhất chị, chị ngồi bệt ngoài sân, dựa vô góc xoài nức nở khóc.
Xe Chạy tới Bình Chánh, ngoại ô Sài Gòn, má thằng Hải nói:
- Chút về tới khách sạn, ăn xong, kiểm tra hành lý rồi má con mình ra sân bay. Con đừng lo cho má con nhiều. Má mang ơn chị ấy không hết, má không để chị ấy thiếu thốn hay thiệt thòi gì đâu. Mỗi năm, má sẽ gửi tiền để chị ấy không phải vất vả, con yên tâm đi, vài năm con về thăm chị ấy.
Thằng Hải nhìn má nó rồi nói :
- Má kêu xe dừng lại chút được không má? Con khát nước quá! Con muốn nghỉ mệt chút, con đi xe không quen.
Xe tắp vô một cái quán võng bên lề. Sau khi uống nửa ly nước, thằng Hải tự nhiên xoay qua má nó, nói một hơi như sợ ai cướp lời nó:
- Má... con không giận, không buồn gì má hết, con vui vì con biết hồi xưa má không phải vứt con như con nghĩ. Gặp má, con mừng lắm bởi con có cội có nguồn. Con thương má nhiều vì con biết bao năm nay má tìm kiếm con vất vả, buồn rầu, lo lắng cho số phần con. Nhưng... con thương má của con hơn, má không có con, má còn có ba, có em. Còn má con có một mình con. Khi nào má con không còn nữa, con sẽ về bên má. Má... con xin lỗi má...
Trong khi má thằng Hải còn đang chưa biết phải làm sao trước sự cố bất ngờ vậy thì nó chạy ào qua thanh chắn phân cách hai làn xe...
- Hải... Hải...
Nó đưa tay vẫy chiếc xe đò ngược chiều mà không thèm nhìn coi xe đi tỉnh nào, nó nhảy phóc lên xe. Xe chạy đi trước sự ngỡ ngàng của má nó bên kia lề và chú tài xế đang cố băng qua đường về phía nó.
Trời về chiều, những tia nắng từ hướng tây chiếu xuống cái sân trước nhà. Bếp núc lạnh tanh dù sáng giờ, chị Hai chưa có hạt cơm bỏ bụng. Chị ngồi trong góc bếp hàng mấy giờ đồng hồ. Chị muốn đứng dậy đi ra sau vườn làm gì đó nhưng tay chân chị bủn rủn, không có sức lực. Chị thầm nghĩ: giờ này chắc Hải đang ngồi trên máy bay như mấy bà ở chợ nói. Chị tự dặn lòng phải mừng cho con chứ, sao mà ngồi ủ rũ như vậy?
Chợt chị nghe nhà trên có tiếng động, sợ con mèo mun nhảy lung tung như thường ngày, làm đổ bể cái gì, chị níu cây cột đứng lên, cố nheo mắt nhìn coi. Có cái bóng đen che ngang trước cửa nhà và tiếng thằng Hải gọi như bao lần đi học về:
- Má ơi...
Chị quỵ chân xuống, môi cười mà nước mắt tuôn như mưa. Ngoài sân, trời về chiều, gió ngoài sông thổi nhẹ từng cơn...
Song Nhi

Sách gối đầu giường trước khi lớn
(Sẻ Xanh) - Những cuốn sách dạy cho ta cách để đứng lên sau những sai lầm, vấp ngã của tuổi trẻ.
1.Life and Death of Harriett Frean – May Sinclair
(Cuộc đời của Harriett Frean)
(Cuộc đời của Harriett Frean)
Các bạn thiếu niên khi bắt đầu chuẩn bị trưởng thành cần hiểu rằng mình cũng là một cá thể độc lập trong xã hội và đôi khi có thể nổi loạn một chút để trưởng thành theo cách mình muốn chứ đừng chỉ nhất nhất nghe theo bố mẹ. Nếu không, dù đã ở tuổi trưởng thành, thực chất họ vẫn chỉ là những đứa trẻ con to xác và cuộc sống của họ sẽ phải trả giá cho sự dựa dẫm quá lớn vào người thân. Những người sống như cây tầm gửi cũng rất đáng thương vì họ không bao giờ biết thế nào là hạnh phúc và long tự trọng theo đúng nghĩa của nó. Khi gặp khó khăn bão táp trong cuộc đời, họ chỉ nghĩ đến việc chạy ào về nhà và sà vào lòng cha mẹ.
Paris in the Fifties – Stanley Karnow
(Pari những năm 1950)
Văn hoá Pháp là một trong những nền văn hoá thịnh vượng nhất Châu Âu. Cuốn sách này là một sự hồi tưởng về những kỷ niệm thời tác giả còn sống ở Paris và là một phóng viên cho một tờ tạp chí từ những năm 1950. Vì vậy, ông đã có dịp va chạm với rất nhiều vấn đề thú vị của nền văn hoá và lịch sử Pháp rồi đem áp dụng vào cuộc sống của mình. Cuốn sách đem lại cho người trẻ một cảm nhận đẹp đẽ về nền văn hoá vừa có nét quen thuộc hiện đại nhưng cũng mang nhiều nét khác biệt bí ẩn và kỳ diệu của văn hoá loài người. Khi gấp trang sách, ban trẻ sẽ thấy khát khao đi du lịch và khám phá cuộc sống muôn màu trong mình bỗng lớn lên từ bao giờ.
Bel Ami – Guy de Maupassant
Cuốn sách như một cuộc tập dượt cho bạn trẻ cách thích nghi với cuộc sống khi trưởng thành. Lúc đó họ sẽ phải đối mặt với những tính xấu của chính bản thân mình, càng lớn, càng phải bon chen trong cuộc sống, phần đẹp đẽ trong tính cách càng bị thử thách và phần xấu xa chỉ trực lớn lên. Một ví dụ đơn giản: ai trong chúng ta cũng muốn làm ít đi, công việc nhẹ nhàng hơn nhưng thành quả phải thật to lớn và con đường đưa tới thành công nên là một con đường thẳng và ngắn thôi. Nhưng ước muốn đó là bất khả thi bởi thành công xây dựng trên một cái móng không vững thì sẽ nhanh chóng xụp đổ. Câu chuyện đời, chuyện nghề của tay nhà báo Georges Duroy sẽ giúp độc giả tìm thấy những bài học của riêng mình.
Homecoming – Cynthia Voigt
(Trở về nhà)
Oliver Twist – Charles Dickens
Câu chuyện kể về cậu bé mồ côi phải sống một cuộc đời vất vả, khổ sở, nhiều khi bị hành hạ, ngược đãi khiến trái tim người đọc xúc động. Qua hàng loạt những biến cố và những cuộc phiêu lưu, Oliver về sau gia nhập vào một băng nhóm những đứa trẻ đi móc túi và ăn cắp vặt tại London. Sau nhiều lần quay ra rồi lại quay vào, cuối cùng Oliver quyết định sẽ trốn đi thật xa để thực sự thoát khỏi băng nhóm tội phạm nhí này. Cậu bé quay về đoàn tụ với những người họ hàng, chấm dứt chuỗi ngày lang bạt kỳ hồ với những chuyến phiêu lưu đầy nguy hiểm rình rập.
The Adventures of Huckleberry Finn – Mark Twain
(Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn)
Little Women – Louisa May Alcott
(Những cô gái nhỏ)

Những cuốn sách gây tranh cãi trong lịch sử
(Sẻ Xanh) - Lịch sử loài người đã chứng kiến những cuộc "chiến tranh" nổ ra vì một tác phẩm văn học. Ngòi bút có sức mạnh không kém gì lưỡi gươm và lịch sử văn học đã khẳng định điều này.
The Holy Blood and the Holy Grail
(Máu thánh và chén thánh)
Cuốn sách này có nhiều điểm tương đồng với Mật mã Da Vinci. Máu thánh và chén thánh
được xuất bản lần đầu năm 1982 ở Anh bởi bộ ba tác giả Michael Baigent,
Richard Leigh và Henry Lincoln. Tác phẩm đã đưa ra nhiều thông tin
“ngược dòng” khiến các tín đồ Thiên Chúa giáo sửng sốt và gây ra nhiều
luồng dư luận trái chiều, những cuộc tranh cãi nảy lửa.
Những thông tin mà các tác giả đưa ra nửa thực nửa hư, vốn đã gây tranh cãi trong giới nghiên cứu Thần học, nhưng khi một tác phẩm chính thức xuất hiện trên thị trường với những lời lẽ đinh ninh để thuyết phục người đọc tin vào những gì được viết trong sách, thì nó như một mồi lửa làm bùng lên tranh cãi. Có thể kể ra ba đầu sách nghiên cứu về những vấn đề chưa được công khai và khẳng định về cuộc đời của Chúa Jesus như The Priory of Sion (Tu viện Sion) xuất bản ở Pháp năm 1956 bởi nhà văn Pierre Plantard, The Holy Blood and the Holy Grail (Máu thánh và Chén thánh), và gần đây nhất là cuốn The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci).
The Adventures of Huckleberry Finn
(Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn)

Đây là một trong những cuốn sách đi cùng tuổi thơ, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn không chỉ nổi tiếng ở Mĩ mà còn được yêu thích ở nhiều nước khác, tuy nhiên nó không bao giờ được trích dẫn trong sách giáo khoa văn học giảng dạy trong nhà trường Mĩ bởi trong truyện, tác giả đã
sử dụng từ “nigger”, một trong những từ phổ biến thời bấy giờ để chỉ
những người da màu, mà ngày nay “nigger” bị coi là một từ miệt thị, mang
sắc thái phân biệt chủng tộc.
Ở thời kỳ bấy giờ, từ “nigger” không hề có ý nghĩa miệt thị chủng tộc, nó được dùng rộng rãi khắp nơi trên đất Mĩ nhưng giờ đây khi phong trào đòi bình quyền giữa các dân tộc sống trên đất Mĩ ngày càng được quan tâm và trở nên gay gắt thì cuốn sách đã bị “vạ lây” và đành để mất chỗ đứng danh giá trong nền văn học chính thống giảng dạy trong nhà trường. Tuy vậy, theo thống kê, vấn đề nhỏ này không làm ảnh hưởng tới niềm yêu thích của tuổi trẻ Mĩ dành cho cuốn sách. Hầu như em nhỏ nào cũng từng đọc tác phẩm này ít nhất một lần.
The Book of Mormon
(Cuốn sách của người đàn ông đa thê)

Cuốn sách này cũng liên quan khá nhiều tới chủ đề tôn giáo và dường như những gì liên quan tới tôn giáo thì dễ dàng gây ra những cuộc tranh luận bởi nó chính là đức tin của con người. Trong sách, tác giả thể hiện nguyện vọng muôn đời của đàn ông là được lấy nhiều vợ. Tác giả cuốn sách, Joseph Smith khao khát chế độ đa thê quay trở lại nhưng luật pháp Mĩ không cho phép điều này, vì vậy ông đã nghĩ ra một thứ tôn giáo mới và đưa vào đó những câu trích dẫn của Kinh thánh những mong biến thứ tôn giáo này thành một dòng chính thống ở Mĩ để đàn ông có thể được đa thê.
Thứ đạo này tin vào những điều kỳ quái, siêu thực. Nó dựng lên trên cái nền là Thiên Chúa giáo và dẫn giải về những điều không tưởng, thiếu xác thực về cuộc đời của Chúa khiến nó bao trùm trong một màu sắc huyền hoặc và phi lý.
The Catcher in the Rye
(Bắt trẻ đồng xanh)

Đây là một trong số những sách tuy nổi tiếng nhưng vẫn bị cấm đưa vào trong giáo dục chính thống của nhà trường Mĩ. Tác giả Salinger đã
rất táo bạo khi xuất bản sách năm 1951 với rất nhiều trường đoạn miêu
tả cảnh nóng, những lời tục tĩu và bản chất nổi loạn cùng những trò tiêu
khiển tai hại của tuổi trẻ. Đây là một trong những sách gây nhiều tranh
cãi nhất trong năm 2005 khi nhiều nhà cải cách giáo dục cân nhắc đưa
sách vào giảng dạy trong nhà trường nhưng những vị phụ huynh cẩn trọng đã phản đối quá mạnh mẽ nên nó vẫn thuộc thể loại sách văn học “ngoài luồng” dành cho tuổi vị thành niên.
The God Delusion
(Ảo tưởng về Thượng Đế)

Những người vô thần tôn vinh
cuốn sách này, những người hữu thần nhạo báng cuốn sách, rất ít người có
thể đứng ở phe trung lập sau khi đọc xong cuốn Ảo tưởng về Thượng Đế. Đó có lẽ là mục đích của tác giả Richard Dawkins. Ảo tưởng về Thượng đế thực sự là một cuốn khảo luận gây nhiều tranh cãi về chủ đề thần học cho tới hôm nay. Trong cuộc tranh cãi đó, đúng sai vẫn chưa được phân định nhưng có một điều chắc chắn là mức độ thành công trên thị trường của nó rất lớn, với hơn 2 triệu bản đã được bán ra.
Dawkins tấn công mạnh mẽ vào tôn giáo, coi đó là những ảo tường huyền hoặc do con người tự vẽ ra. Trên đời này làm gì có thần thánh nào, chỉ có những giai đoạn mà con người vì cuồng đạo và vẽ ra những hình hài để rồi lấy đó mà thờ phụng thôi. Ông sử dụng lý luận logic để phá hủy niềm tin của con người về các thể loại tôn giáo, thánh thần và sau đó ông bàn luận tới vấn đề đạo đức, vốn đi liền với tôn giáo.
Dawkins là một trong ba nhà văn chuyên viết về đề tài tôn giáo với những nghiên cứu và lý luận đanh thép. Hai người còn lại là Sam Harris và Christopher Hitchens, họ bị những người sùng đạo Thiên Chúa coi là bộ ba vô đạo. Đó là một tội lớn đối với những người theo đạo, tội sống không có đức tin.
If I Did It: Confessions of a Killer
(Nếu tôi làm như thế: Những lời thú nhận của kẻ giết người)

O.J. Simpson người viết ra cuốn sách này trong quá trình
tranh tụng kéo dài nhiều năm để chứng minh mình vô can trong vụ án mạng
mà nạn nhân là vợ cũ của Simpson cùng bạn trai mới của cô. Cuốn sách về
sau bị đình bản nhưng trước đó 400.000 bản đã được bán ra.
Tác giả cuốn sách, Simpson bị cáo buộc đã sát hại vợ cũ và bạn trai của cô, nhưng anh ta khăng khăng rằng mình vô tội. Trong suốt quá trình điều tra kéo dài hơn 10 năm, Simpson đã cho ra cuốn sách trong đó khẳng định rằng mình không giết hại hai nạn nhân kia. Tuy vậy, Simpson lại đặt mình vào địa vị của kẻ sát nhân, tưởng tượng ra nếu mình là hắn thì sẽ hành động như thế nào.
Khi cuốn sách được xuất bản năm 2006, nhà xuất bản vẫn có cớ để tin rằng Simpson vô tội vì kết luận cuối cùng từ toà án vẫn chưa được đưa ra. Vì mức lợi nhuận hứa hẹn, nhà xuất bản đã ca ngợi trí tưởng tượng, tài lập luận, và những giả định mà Simpson đưa ra là vô cùng hoàn hảo như một nhà trinh thám đại tài.
Sách được bán rất chạy nhưng sau đó một năm, Simpson chính thức bị buộc tội giết người vì toà án đã tìm ra những bằng chứng thuyết phục để kết luận, ngay lập tức sách bị đình bản. Nhà xuất bản đã rất khôn ngoan và biến cuốn sách này sang dạng tự truyện và để một nhà văn khác viết lại thành những lời tâm sự của kẻ sát nhân.
The Prince
(Hoàng tử)

Tác phẩm đỉnh cao của Niccolo Machiavelli đã phải
chịu rất nhiều điều tiếng trong hàng thế kỷ bởi nó cổ vũ cho chính quyền
chuyên chế. Machiavelli nhận định rằng nhà cầm quyền nên được lòng dân
chúng. Nhưng một nhà cầm quyền được lòng
mọi tầng lớp nhân dân là điều không thể. Có một dạng thức thứ hai của
Nhà nước là sử dụng chính quyền chuyên chế, có đủ uy quyền để khiến mọi
tầng lớp đều phải kính sợ mà tuân theo. Và đa số các chính thể đều thuộc
dạng thứ hai.
Cuốn sách này mang ý nghĩa triết học nhiều hơn là chính trị, nó ủng hộ tinh thần tự lực tự cường của con người. Nhưng cuốn sách nhiều khi đưa đến những luận điểm cực đoan kiểu như ta không cần giúp ai cả bởi tạ tự giúp mình, và người khác cũng phải tự giúp lấy bản thân họ. Tự lực tự cường là một trong số những học thuyết cơ bản của dòng đạo thờ phụng quỷ Sa-tăng. Những người phê phán cuốn sách thường vin vào đó để phủ nhận giá trị của tác phẩm.
Những nhà phê bình đương thời phỉ báng cuốn sách bởi nó phản lại ý tưởng về người lãnh đạo toàn thiện toàn mĩ, phản lại chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Thay vào đó nó xây dựng nên hình ảnh của một nhà nước chuyên chế với những công cụ bạo lực trấn áp. Tuy vậy, dưới ánh sáng khoa học hiện đại, đây vẫn là tác phẩm đầu tiên đánh dấu thời kỳ mở ra dòng lý luận triết học và chính trị hiện đại.
The Holy Bible
(Kinh thánh)

Không có cuốn sách nào được xuất bản nhiều, dịch ra nhiều thứ tiếng và gây ra nhiều tranh lunậ hơn Kinh thánh của đạo Thiên Chúa. Kinh thánh luôn là đầu sách được in ấn và lưu hành rộng rãi nhất trên thị trường và đã được dịch sang 2.400 thứ tiếng trong tổng số hơn 6.900 thứ tiếng trên thế giới.
Chính vì được dịch sang quá nhiều thứ tiếng và trong quá trình chuyển tải từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ đích sẽ có độ lệch nhất định mà những cuộc tranh cãi kéo dài về cuốn sách đã từng xuất hiện rất nhiều trong lịch sử. Từ đó những nhà hữu thần, vô thần, những nhà nghiên cứu Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo… bắt đầu “tham chiến”. Nếu người này muốn chứng minh luận điểm của người kia sai, họ sẽ phải nghiên cứu cái nền lý luận của đối thủ và vì thế Kinh thánh luôn được tìm mua, một phần để đáp ứng nhu cầu của các tín đồ đông đảo, một phần để đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu.
Trong lịch sử nước Mĩ, những nhà lập pháp đầu tiên đã lấy Kinh Thánh ra làm chuẩn mực lập nên các đạo luật và giải quyết những vấn đề xã hội theo tinh thần của Chúa được thể hiện trong Kinh Thánh. Vì vậy, Kinh Thánh còn được coi là cái nền sinh ra Hiến pháp Mĩ.
Bên cạnh đó những cuộc tranh cãi muôn thuở về vấn đề đạo đức cũng thường liên quan tới Kinh Thánh, những nhà triết học trước đây thường trích dẫn lời của những người nổi tiếng nhưng từ khi có sự ra đời của Kinh Thánh, người ta trích dẫn từ nguồn này nhiều hơn bất kỳ nguồn nào khác. Bên cạnh đó, Kinh Thánh còn mang ý nghĩa chính trị vì nhiều khi để tiến hành một động thái chính trị, kinh tế nào đó, người ta viện tới những lý do trích dẫn từ Kinh Thánh.
(Máu thánh và chén thánh)
Những thông tin mà các tác giả đưa ra nửa thực nửa hư, vốn đã gây tranh cãi trong giới nghiên cứu Thần học, nhưng khi một tác phẩm chính thức xuất hiện trên thị trường với những lời lẽ đinh ninh để thuyết phục người đọc tin vào những gì được viết trong sách, thì nó như một mồi lửa làm bùng lên tranh cãi. Có thể kể ra ba đầu sách nghiên cứu về những vấn đề chưa được công khai và khẳng định về cuộc đời của Chúa Jesus như The Priory of Sion (Tu viện Sion) xuất bản ở Pháp năm 1956 bởi nhà văn Pierre Plantard, The Holy Blood and the Holy Grail (Máu thánh và Chén thánh), và gần đây nhất là cuốn The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci).
The Adventures of Huckleberry Finn
(Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn)
Ở thời kỳ bấy giờ, từ “nigger” không hề có ý nghĩa miệt thị chủng tộc, nó được dùng rộng rãi khắp nơi trên đất Mĩ nhưng giờ đây khi phong trào đòi bình quyền giữa các dân tộc sống trên đất Mĩ ngày càng được quan tâm và trở nên gay gắt thì cuốn sách đã bị “vạ lây” và đành để mất chỗ đứng danh giá trong nền văn học chính thống giảng dạy trong nhà trường. Tuy vậy, theo thống kê, vấn đề nhỏ này không làm ảnh hưởng tới niềm yêu thích của tuổi trẻ Mĩ dành cho cuốn sách. Hầu như em nhỏ nào cũng từng đọc tác phẩm này ít nhất một lần.
The Book of Mormon
(Cuốn sách của người đàn ông đa thê)
Cuốn sách này cũng liên quan khá nhiều tới chủ đề tôn giáo và dường như những gì liên quan tới tôn giáo thì dễ dàng gây ra những cuộc tranh luận bởi nó chính là đức tin của con người. Trong sách, tác giả thể hiện nguyện vọng muôn đời của đàn ông là được lấy nhiều vợ. Tác giả cuốn sách, Joseph Smith khao khát chế độ đa thê quay trở lại nhưng luật pháp Mĩ không cho phép điều này, vì vậy ông đã nghĩ ra một thứ tôn giáo mới và đưa vào đó những câu trích dẫn của Kinh thánh những mong biến thứ tôn giáo này thành một dòng chính thống ở Mĩ để đàn ông có thể được đa thê.
Thứ đạo này tin vào những điều kỳ quái, siêu thực. Nó dựng lên trên cái nền là Thiên Chúa giáo và dẫn giải về những điều không tưởng, thiếu xác thực về cuộc đời của Chúa khiến nó bao trùm trong một màu sắc huyền hoặc và phi lý.
The Catcher in the Rye
(Bắt trẻ đồng xanh)
The God Delusion
(Ảo tưởng về Thượng Đế)
Dawkins tấn công mạnh mẽ vào tôn giáo, coi đó là những ảo tường huyền hoặc do con người tự vẽ ra. Trên đời này làm gì có thần thánh nào, chỉ có những giai đoạn mà con người vì cuồng đạo và vẽ ra những hình hài để rồi lấy đó mà thờ phụng thôi. Ông sử dụng lý luận logic để phá hủy niềm tin của con người về các thể loại tôn giáo, thánh thần và sau đó ông bàn luận tới vấn đề đạo đức, vốn đi liền với tôn giáo.
Dawkins là một trong ba nhà văn chuyên viết về đề tài tôn giáo với những nghiên cứu và lý luận đanh thép. Hai người còn lại là Sam Harris và Christopher Hitchens, họ bị những người sùng đạo Thiên Chúa coi là bộ ba vô đạo. Đó là một tội lớn đối với những người theo đạo, tội sống không có đức tin.
If I Did It: Confessions of a Killer
(Nếu tôi làm như thế: Những lời thú nhận của kẻ giết người)
Tác giả cuốn sách, Simpson bị cáo buộc đã sát hại vợ cũ và bạn trai của cô, nhưng anh ta khăng khăng rằng mình vô tội. Trong suốt quá trình điều tra kéo dài hơn 10 năm, Simpson đã cho ra cuốn sách trong đó khẳng định rằng mình không giết hại hai nạn nhân kia. Tuy vậy, Simpson lại đặt mình vào địa vị của kẻ sát nhân, tưởng tượng ra nếu mình là hắn thì sẽ hành động như thế nào.
Khi cuốn sách được xuất bản năm 2006, nhà xuất bản vẫn có cớ để tin rằng Simpson vô tội vì kết luận cuối cùng từ toà án vẫn chưa được đưa ra. Vì mức lợi nhuận hứa hẹn, nhà xuất bản đã ca ngợi trí tưởng tượng, tài lập luận, và những giả định mà Simpson đưa ra là vô cùng hoàn hảo như một nhà trinh thám đại tài.
Sách được bán rất chạy nhưng sau đó một năm, Simpson chính thức bị buộc tội giết người vì toà án đã tìm ra những bằng chứng thuyết phục để kết luận, ngay lập tức sách bị đình bản. Nhà xuất bản đã rất khôn ngoan và biến cuốn sách này sang dạng tự truyện và để một nhà văn khác viết lại thành những lời tâm sự của kẻ sát nhân.
The Prince
(Hoàng tử)
Cuốn sách này mang ý nghĩa triết học nhiều hơn là chính trị, nó ủng hộ tinh thần tự lực tự cường của con người. Nhưng cuốn sách nhiều khi đưa đến những luận điểm cực đoan kiểu như ta không cần giúp ai cả bởi tạ tự giúp mình, và người khác cũng phải tự giúp lấy bản thân họ. Tự lực tự cường là một trong số những học thuyết cơ bản của dòng đạo thờ phụng quỷ Sa-tăng. Những người phê phán cuốn sách thường vin vào đó để phủ nhận giá trị của tác phẩm.
Những nhà phê bình đương thời phỉ báng cuốn sách bởi nó phản lại ý tưởng về người lãnh đạo toàn thiện toàn mĩ, phản lại chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Thay vào đó nó xây dựng nên hình ảnh của một nhà nước chuyên chế với những công cụ bạo lực trấn áp. Tuy vậy, dưới ánh sáng khoa học hiện đại, đây vẫn là tác phẩm đầu tiên đánh dấu thời kỳ mở ra dòng lý luận triết học và chính trị hiện đại.
The Holy Bible
(Kinh thánh)
Không có cuốn sách nào được xuất bản nhiều, dịch ra nhiều thứ tiếng và gây ra nhiều tranh lunậ hơn Kinh thánh của đạo Thiên Chúa. Kinh thánh luôn là đầu sách được in ấn và lưu hành rộng rãi nhất trên thị trường và đã được dịch sang 2.400 thứ tiếng trong tổng số hơn 6.900 thứ tiếng trên thế giới.
Chính vì được dịch sang quá nhiều thứ tiếng và trong quá trình chuyển tải từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ đích sẽ có độ lệch nhất định mà những cuộc tranh cãi kéo dài về cuốn sách đã từng xuất hiện rất nhiều trong lịch sử. Từ đó những nhà hữu thần, vô thần, những nhà nghiên cứu Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo… bắt đầu “tham chiến”. Nếu người này muốn chứng minh luận điểm của người kia sai, họ sẽ phải nghiên cứu cái nền lý luận của đối thủ và vì thế Kinh thánh luôn được tìm mua, một phần để đáp ứng nhu cầu của các tín đồ đông đảo, một phần để đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu.
Trong lịch sử nước Mĩ, những nhà lập pháp đầu tiên đã lấy Kinh Thánh ra làm chuẩn mực lập nên các đạo luật và giải quyết những vấn đề xã hội theo tinh thần của Chúa được thể hiện trong Kinh Thánh. Vì vậy, Kinh Thánh còn được coi là cái nền sinh ra Hiến pháp Mĩ.
Bên cạnh đó những cuộc tranh cãi muôn thuở về vấn đề đạo đức cũng thường liên quan tới Kinh Thánh, những nhà triết học trước đây thường trích dẫn lời của những người nổi tiếng nhưng từ khi có sự ra đời của Kinh Thánh, người ta trích dẫn từ nguồn này nhiều hơn bất kỳ nguồn nào khác. Bên cạnh đó, Kinh Thánh còn mang ý nghĩa chính trị vì nhiều khi để tiến hành một động thái chính trị, kinh tế nào đó, người ta viện tới những lý do trích dẫn từ Kinh Thánh.

Chia sẻ miễn phí báo Phong Hóa - Ngày Nay
(Sẻ Xanh) - Bản số hóa toàn bộ báo Phong Hóa và Ngày Nay
của Tự Lực Văn Ðoàn từ những năm 1930-1940 sẽ được công bố và cho down
load miễn phí tại website của khoa văn học và ngôn ngữ Ðại học Khoa học
xã hội và nhân văn TP.HCM, Ðại học Hoa Sen, khoa ngữ văn Ðại học Sư phạm
Hà Nội, bắt đầu từ ngày 22-9-2012.
Báo Phong Hóa số xuân 1935 - Ảnh: L.Điền
|
Ðây là công trình
được bà Phạm Thảo Nguyên (định cư ở Hoa Kỳ, con dâu của nhà văn Thế Lữ)
cùng các cộng sự thực hiện từ đầu năm 2011.
Trong đó, phần lớn báo Phong Hóa, Ngày Nay
được bà Nguyên mua lại từ cách nay 20 năm, cùng với sưu tập của Martina
Nguyễn Thục Nhi và sự giúp sức của Nguyễn Tường Thiết, Vu Gia, Ðỗ Tuấn
Khanh, mới có được bộ Phong Hóa (190 số) và Ngày Nay (224 số).
Công tác kỹ thuật do Nguyễn Trọng Hiền, Lê Thành Tôn, Ðỗ Thị Kim Dung, Lê Huyền Thanh đảm nhiệm.
Toàn bộ các số báo được số
hóa bằng cách chụp lại nguyên trang, định dạng file theo chuẩn pdf và sẽ
công bố với mật độ khoảng 10 số/ tuần tại trang web của ba trường đại
học nói trên.
Phía Ðại học Hoa Sen cho biết trước ngày 22-9 sẽ công bố 13 số đầu của báo Phong Hóa. Ðây là 13 số báo do Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai làm, trước khi chuyển lại cho Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Báo Phong Hóa
số 14 ra ngày 22-9-1932 do Nhất Linh làm giám đốc, sau này trở thành
một tiếng nói của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn (tôn chỉ mục đích của nhóm công
bố trong số 87, 2-3-1934).
Kỷ niệm 80 năm sự
kiện này, ngoài trang web của ba đại học trên, một số trang web trong và
ngoài nước cũng lần lượt công bố toàn bộ bản số hóa của Phong Hóa và Ngày Nay.
Bà Phạm Thảo Nguyên (bìa trái) đang giới thiệu với
khoa văn học và ngôn ngữ Đại học KHXH&NV TP.HCM bộ Phong Hóa - Ngày
Nay bản số hóa - Ảnh: VHT
|
Trao đổi với Tuổi Trẻ chiều 18-9, bà Phạm Thảo Nguyên cho biết sau khi công trình số hóa báo Phong Hóa - Ngày Nay hoàn thành, bà muốn phổ biến trước hết tại các đại học khoa học xã hội và nhân văn trong nước.
"Hơn đâu hết, sinh viên và thầy cô giáo những nơi này cần các tư liệu văn học từ Phong Hóa, Ngày Nay. Chúng tôi trân trọng sự nghiệp của các cụ thế hệ trước, qua Phong Hóa, Ngày Nay
thấy rõ tấm lòng yêu nước Việt, yêu dân Việt, học được cách sử dụng chữ
quốc ngữ, đặc biệt là tinh thần xiển dương cái đẹp bình dân trong đời
sống của dân tộc... điều này có trong tôn chỉ Tự Lực Văn Ðoàn", bà Thảo
Nguyên nói.
Hai tờ báo Phong Hóa (số cuối ra ngày 5-6-1936) và Ngày Nay (số
đầu ra ngày 30-1-1935, số cuối ra ngày 7-9-1940) là những tờ báo trào
phúng đầu tiên của nước ta. Mục đích của báo được quảng bá lần đầu trong
Phong Hóa
số 13 là: Bàn một cách vui vẻ các vấn đề cần thiết: xã hội, chính trị,
kinh tế - nói rõ về hiện tình trong nước... Ðó chính là tinh thần dân
chủ và bình đẳng trong tư tưởng, văn chương, báo chí. Sau này tờ báo
thật sự đã nổi bật ở tính thời sự và giọng châm biếm.
Năm 1934, những người làm báo Phong Hóa
đã thành lập nhóm Tự Lực Văn Ðoàn với sáu thành viên: Nhất Linh, Hoàng
Ðạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Tú Mỡ và Thế Lữ; sau này có thêm thành viên
thứ bảy là thi sĩ Xuân Diệu. Giải thưởng Tự Lực Văn Ðoàn trao có ba lần
(1935, 1937, 1939) nhưng đã là một giải thưởng uy tín, một bảo chứng
danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đoạt giải: Ðỗ Ðức Thu,
Phan Văn Dật, Vi Huyền Ðắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh...
|
Lam Điền
