Lão nông hóa kiếp rồng tre 'không đụng hàng'

Đại gia Đà thành lên đời nhờ... chim
(Sẻ Xanh) - Săn bắt, nuôi và bán chim rừng làm cảnh ở Đà Nẵng thời gian qua trở thành nghề hot và hái ra tiền của một số người. Nhiều ông chủ chỉ sau một vài năm buôn bán chim đã trở thành đại gia nhờ nắm được thị hiếu của người yêu chim cảnh...
Trước khi đến với nghề săn bắt chim, đại gia Vũ Tú Nam, quê Tiên Phước (Quảng Nam) chẳng có nghề ngỗng gì. Cưới vợ xong, sinh con đầu lòng, hai vợ chồng lâm vào cảnh túng thiếu. Để kiếm cơm hàng ngày, anh bàn với vợ mở quán cà phê cạnh sông Tiên, trên tuyến đường lên vùng cao Nam - Bắc Trà My.
Một buổi chiều ngồi nhìn mưa giăng trước nhà, lái xe đưa các sếp đi công tác vùng cao vào nghỉ chân tại quán, anh thấy ai cũng nâng níu mấy con chim non. Hỏi ra anh mới biết họ có thú chơi chim và mua những con chim non này rất đắt. Thế là anh nảy ra ý định đi bắt chim rừng về nuôi và bán lại kiếm tiền.
Anh kể: Nói là làm, việc bán cà phê giao cho vợ, anh bắt đầu cơm đùm gạo gói vào rừng săn chim. Chuyến đi đầu tiên kéo dài 5 ngày, anh mang về một bầy chim non chào mào, sáo... hơn 12 con để nuôi.
Hơn hai tháng sau, lứa chim non anh bắt về chăm sóc chỉ còn lại 7 con, anh đưa vào lồng treo trước quán cà phê và tập cho chim hót.
Ngoài kinh doanh chim, vợ chồng anh Nam bắt đầu mở rộng kinh doanh nhiều mặt hàng ăn theo, như bán thức ăn nuôi chim, bán lồng, mở cà phê chim và thành lập cả hội chơi chim. Thậm chí, anh còn ấp ủ ý định dịch vụ chăm sóc chim để mở đường kinh doanh kiếm tiền...
Một góc chợ chim ở Đà Thành
Nhiều người dân vùng đất quê nghèo Quảng Nam cũng nắm bắt được nhu cầu chơi chim của các đại gia Đà Thành. Vợ chồng anh Lê Phú Lâm, ở Tam Kỳ bỏ nghề bán hàng tạp hóa chuyển sang chơi chim và kinh doanh chim hơn 10 năm nay - như lời anh nói, là sống chết với chim.
Anh Lâm cho hay toàn bộ vốn liếng hơn 600 triệu đồng sau khi sang hàng tạp hóa, bán thêm lô đất ở khu dân cư, vợ chồng anh lao vào chơi chim và kinh doanh chim. "Cái nghề ni cũng lạ anh à. Vừa được chơi, lại vừa có tiền, mà nhàn nhã, không phải lao tâm khổ tứ, được gặp anh em bạn bè hàn huyên, sướng lắm!".
Nhưng cái nghề chơi chim cũng lắm công phu, cũng hỉ nộ ái ố, cũng nước mắt và nụ cười. Cũng có lúc tim như ngừng đập vì... chim.
Nước mắt đại gia vì... chim
Chị Lê Thị Quyên, chủ hàng chim trên vỉa hè phố Nguyễn Hữu Thọ, kể trong nước mắt. Chị bảo mấy năm trước cả nhà 7 miệng ăn sống nhờ vào 4 sào ruộng lúa nước và nghề bán chim cũng tạm đủ ăn, nếu không muốn nói là khá giả.
Nhưng mấy tháng nay, chồng chị trong một lần leo lên cây cao ở vùng rừng Nam Giang lấy ổ chim sáo, không may trượt chân té xuống đất bị chấn thương nằm một chỗ.Để có cái ăn, chị phải đi mua lại chim của mấy anh hàng xóm chở ra Đà Nẵng bán kiếm lời để nuôi con và lo thuốc thang cho chồng.
Một quán cà phê chim, kiêm kinh doanh chim rừng tại Tiên Phước đang bán chim cho khách.
Mỗi năm lợi nhuận từ chim chủ quán cà phê này thu lợi hơn 100 triệu đồng.
Chị nói rằng trước khi chồng gặp nạn, nhờ nghề bắt chim và bán chim nơi vỉa hè Đà Thành cuộc sống của hai vợ chồng khấm khá. Nhưng bây giờ tất cả số tiền dành dụm từ nghề buôn chim mấy trăm triệu đồng đều đội nón ra đi vì tai nạn của chồng.
Thành "Râu", một đại gia chim Đà thành - than thở, nghề buôn bán chim và chơi chim cũng đong đầy nước mắt. Giàu lên nhờ chim, nhưng cũng nghèo đi cũng vì chim mà chẳng mấy ai lường hết được. Ngay cả Thành "Râu" cũng bao phen trắng tay vì chim. Đó là bận năm 2009, rồi đến năm 2011, Thành "Râu" dốc toàn bộ vốn liếng hàng tỷ đồng mở trại chim với ý định làm ăn lớn. Những chiếc lồng khủng có giá hàng chục triệu đồng được Thành "râu" đặt đóng cùng lúc có thể nuôi nhốt hàng trăm con chim đủ các loại.
Đùng một cái, dịch cúm gia cầm ào ạt tấn công các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế và chẳng bao lâu tràn vào Đà Nẵng. Chiến dịch tiêu hủy gia cầm để ngăn chặn dịch cúm được chính quyền địa phương triển khai đồng bộ. Hàng trăm con chim của Thành "Râu" cũng nằm trong danh sách cần phải tiêu hủy bắt buộc. Thế là trắng tay - Thành "Râu" kể như khóc.
Sau bận cúm gia cầm, nhiều đại gia chim như Thành "Râu", Chiến "Chích chòe" cùng nhiêu đại gia chim khác nơi chốn Đà Thành này lâm vào cảnh trắng tay. Nhưng rồi cúm gia cầm cũng qua, các đại gia chim bắt đầu gầy dựng trở lại và không dám đầu tư trại chim như Thành "Râu" mà chuyển sang kinh doanh chim một cách thận trọng hơn.
Cũng nhờ những năm gần đây người dân Đà Thành có thú chơi chim, nên cơ hội làm ăn trở lại của những đại gia chim như Thành "Râu" cũng đang bắt đầu hanh thông.
Chiến lược kinh doanh chim của các đại gia cũng được lên "kịch bản" và lộ trình mà như lời kể của Chiến "Chích chòe" là phải liên doanh, liên kết để cung cấp chim cho những người mê chim và hình thành những dịch vụ cho... chim một cách liên hoàn, bài bản.
Cụ thể, các đại gia và người thân đầu tư mở các quán cà phê chim, rồi cung cấp dịch vụ như bán thức ăn cho chim, lồng chim và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho chim. Ngay cả phương án dự phòng cũng được tính đến như khi dịch cúm xuất hiện trở lại cần phải đưa chim quí đi trốn dịch như thế nào cũng đã được tính đến.
Chỉ riêng cung cấp thức ăn và chăm sóc cho chim cũng đã làm các đại gia đau đầu. Chiến "Chích chòe" kể: "Việc đầu tiên là phải tìm sách về chim để đọc. Đồng thời phải đi 'tầm sư học đạo' các nhà 'chim học' mới có đủ kiến thức để chăm những chú chim có giá "khủng" từ 20 triệu đến hàng trăm triệu đồng. Nếu không có kiến thức về chim và không chịu khó học hỏi thì chỉ cần những lúc trái gió trở trời, hay chỉ cho chim ăn một loại thức ăn công nghiệp có sẵn thì chỉ một đêm đến sáng là hàng trăm triệu đồng mất trắng vì chim chết".
Chiến "Chích chòe" vỗ vai tôi: "Nếu có máu chơi chim và kinh doanh chim thì hãy nhập hội. Anh bảo đảm nếu làm ăn hanh thông và biết tính toán mỗi năm kiếm cũng được tiền tỷ... ". Tôi không dám tin, nhưng nhìn cung cách và phong thái nhàn nhã, cùng các phương tiện đắt tiền như xe hơi, điện thoại cũng như cách tiêu tiền, rồi giao dịch mua bán giá trị hàng chục, hàng trăm triệu đồng mỗi con chim quý... , thì với những người máu kinh doanh không thử sức cũng là lạ.

Các thế cây cảnh
Là ba cây kiểng nằm chung trong một chậu to. Còn gọi là tam tài, ba cây kiểng trực thọ đứng gần ngay hàng, cây cao chính giữa, hai cây thấp hơn ở hai bên, nhưng có thể so le một tý, cây to có 5 tàn, hai cây lùn chỉ cần ba tàn, có thể giao cành với nhau làm thế nào ba cây cân đối mới đẹp và ba cây cũng liên kết với nhau, nếu thiếu một trong ba cây là mất hết vẻ đẹp.
Thế này phải uốn với song thọ trồng chung vào một chậu, uốn đối xứng thành hai con rồng uốn khúc, giao đầu tranh hạt minh châu nằm ở giữa, là thế kiểng cổ thường thấy uốn với hai cây mai chiếu thủy hay cần thăng kim quýt, ngày nay thường uốn với cùm nụm rô nhanh chóng hơn với nòng bằng kẽm, trồng cây lên tới đâu, gài vô tới đó vài ba năm là thành, thân hai con rồng uốn khúc, đấu đầu lại nhìn quả châu, các nhánh làm chân và mây, đuôi ngẩng lên xòe ra như múa rất đẹp.
Thế này bay bướm hơn, có nghĩa là chim phượng hòang múa trên mình rồng. Đây là thế có thể uốn với một cây, hoặc hai cây trồng chung một chậu. Phải cây cổ thụ gốc to, uốn nằm trên miệng chậu, gốc ngẩng lên làm đầu rồng.
Thế này cũng có thể uốn với một cây kiểng to có hai thân hoặc với hai cây trồng chung một chậu.Thế long bàn hổ phục có nghiã là rồng nằm uốn khúc và hổ cũng nằm sát đất chịu khuất phục để chầu chủ nhân.
Thế này gồm hai cây to riêng biệt hay cùng gốc, nhưng một cây cao một cây thấp, rễ xòe ra theo chân thú, cây thấp thân to, ngắn nằm ngang, ngọn làm đầu ngẩng lên, không tàn nhánh, tạo dáng con ngựa nằm quay đầu trở lên. Cây cao uốn thân long, cong cong văn vẹo, phân chi theo lối tứ diện, xòe ra bốn phía làm chân và mây, ngọn uốn tàn to như bông sen rồi bẻ cúp xuống làm đầu rồng quay trở lại.
Bây giờ đến thế có hai cây trồng chung trong một chậu. Thế song thụ còn có thể song xiêu, hai cây to cao như huynh đệ, nhưng đều bị gió xô đổ ngã về một bên, hoặc một cây ngã bên này, một cây ngã về bên kia, theo chiều đối nghịch nhau để giữ thăng bằng, cành nhánh đều phân theo lối chi tiết, ngọn vươn thẳng lên và hồi đầu.
Thế này y như thế phụ tử, nhưng phần nhánh cuả hai cha con có thêm phần quấn quýt, ôm lấy nhau, mặc dù cha con, nhưng yêu thương trìu mến y như tình yêu thương dịu dàng cuả mẹ con. Thế này câu tử có thể to cao hơn và có một nhánh quyện lấy cây phụ nên gọi phụ tử giao chi.Các thế khác như huynh đệ, tỷ muội, đồng khoa...
Thế này cũng y như thế mẫu tử, nhưng cây phụ, nhưng cây cha phải to cao và đứng thẳng hơn cây mẫu, tạo vóc dáng cuả người cha, ít dịu dàng hơn, cứng rắn hơn, nhưng không phải là không che chở cho con, thể hiện đúng tình cảm cha con,cây tử nhỏ hơn cây phụ nhiều, cũng ba tàn, quấn quýt lấy cây phụ, lúc nào cũng nhờ sự bao bọc cuả người cha.
Thế này dễ uốn hơn thế long thăng, hình dáng điệu bộ ngược lại với thế long thăng là được. Đầu chúi xuống, ngực nằm trên mặt chậu, cành nhánh làm mây bao lấy chân uốn khúc trong tư thế đáp xuống, đuôi mềm dẻo, làm bánh lái điều khiển êm ái nhẹ nhàng một cách tự nhiên. Tuy nhiên không kém phần oai phong lẫm liệt, vì rồng là con vật trong bộ tứ linh, rất dũng mãnh.
Thế này có hai cách uốn, tùy theo ý cuả nghệ nhân, tùy theo đánh cây+ Cách thứ nhất: Uốn đầu rồng ở trên ngọn cây. Cách này hợp lý vì rồng bay lên thì đầu phải ở trên, nhưng rất khó uốn, làm sao ngọn cây nhỏ hơn gốc cây mà uốn đầu nằm trên ngọn cho đạt.

Chim khướu
(Sẻ Xanh) - Khướu (Timaliidae) họ chim, thuộc bộ Sẻ
(Passeriformes) gồm các loài chim rất đa dạng, có cỡ trung bình, một số
loài khướu cỡ nhỏ. Bộ lông khướu mềm, dày, xốp, thường có màu xỉn, cánh
tròn, chân khỏe và cao, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và
trên các cành cây, có tiếng hót vang và hay.
Phần lớn khướu sống thành đàn nhỏ, trong các tầng cây bụi hay dưới tán rừng, chủ yếu sống định cư.
Tổ hình chén hoặc tổ có mái che. Phần lớn các loài khướu, con trống và con mái có bộ lông và vóc dáng giống nhau.
I. Các loài khướu:
Trên thế giới có 254 loài khướu. Việt Nam có 95 loài, được xếp vào loài
đặc hữu Việt Nam, phân bố ở các tỉnh miền Trung Việt Nam (như Quảng
Bình, Quảng Trị), nam Trung bộ và đặc biệt ở Lâm Đồng. Khướu mun (tên
khoa học là Garrulax chinensis lugens) được nuôi làm cảnh từ những năm
1994-1995 nhưng là vì chim rừng, nên khó nuôi. Chim khướu chọn nuôi đá
nhau là chim khướu bạc má (có tên khoa học là Garrulax chinensis), khác
với khướu đầu trắng (Garrulax lexcholophus).
Ở vùng Kỳ Anh (Hà Tĩnh), A Lưới núi Bạch Mã (Thừa Thiên-Huế) có loài
khướu gọi là khướu mỏ dài, tên khoa học là Jabouilleia danjoui, đây là
loài chim đặc hữu quý của Việt Nam vừa có giá trị khoa học vừa có giá
trị thẩm mỹ. Chim khướu này khi trưởng thành có mỏ dài, không cong, đuôi
ngắn, bộ lông nâu hung vàng. Cằm, họng và giữa bụng trắng nhạt, sống
định cư ở rừng độ cao 1000m.
Ngoài ra, còn có 2 loài chim khướu có giá trị nữa trong 95 loài khướu ở Việt Nam là khướu mỏ dẹt đuôi ngắn và khướu xám.
Khướu mỏ dẹt đuôi ngắn: Tên khoa học là Paradoxomus davidianus
tonkinensis, cũng là họ Timaliidae, bộ sẻ Passeriformes. Chim này có đầu
hung nâu tươi, đuôi nâu thẫm, cánh viền màu hung tươi, mắt hung nâu,
chân xám hồng. Chúng sống ở các bụi tre nứa trên các vùng đồi có độ cao
600-1000m, có rất nhiều ở Bắc Cạn.
Khướu xám: Tên khoa học là
Garrulax maesi, đây là loài chim khi trưởng thành, phần lông trước mắt
dưới mắt, má và cằm cùng dãy lông mày có màu đen nhạt. Hai bên đầu có
vệt trắng rộng chạy từ phía sau mắt đến cổ; tai xám nhạt; bụng và ngực
phớt nâu. Mắt nâu hoặc đỏ. Chân xám đen.
Khước xám sống ở rừng
rậm thường xanh nguyên sinh, thứ sinh và rừng khai thác. Người ta gặp
chúng ở khu vực Lài Cao, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc… ở độ cao 1600m. Đây là loại chim hiếm, quý.
Trên
thế giới, lòai chim khướu tập trung thành từng nhóm nhỏ, sống trong
đám rừng tre hoặc trong những bụi cây rậm rạp. Tập trung ở miền nam
Trung Quốc, phía tây tỉnh Vân Nam và khắp Đông Dương.
Khướu
được nuôi và biết nhiều nhất là khướu bạc má Garrulax chinensis, khướu
mun Garrulax chinensis lugens và khướu đầu trắng Garrulax lexcholophus.
Khướu đầu trắng còn có tên gọi khác là bù chao, hoặc gọi đầy đủ là bù
chao đầu bạc. Khướu đầu trắng hót không hay bằng hai con trước, nhưng
bù lại chúng có thể bắt chước, nhại lại giọng húyt sáo của con người
nên nuôi chúng rất vui cửa vui nhà.
Tại Việt Nam, chim khướu có
mặt khắp nơi từ bắc miền Nam đến sát biên giới phía Bắc Việt Nam. Rất
hiếm gặp tại tuyến rừng Bù Đăng – Bù Đốp đổ ra. Khướu có giọng hót rất
lớn, rền và vang xa, đồng thời cũng có thể bắt chước được một số giọng
hót đa dạng khác nên chúng cũng được gọi là khướu bách thanh.
Màu sắc của chúng tùy theo từng địa phương:
-Khướu đen tòan thân có màu đen, sống các vùng ven thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. trở ra.
-Từ Quảng Trị, Quảng Bình trở ra, khướu có màu xám tro.
-Miền Trung, khướu có màu xám xanh đậm.
-Khu vực Đèo Chuối (Bảo Lộc) có màu xám xanh.
-Từ Bù Na trở ra, khướu có màu lông vàng nâu.
Khướu mun: Tòan thân có màu xám đen, màu tối nhưng nhìn sạch sẽ vì bộ
lông óng mượt. Trên đầu lớt phớt vài cọng lông trắng, dưới hầu đen mun,
chân đen, mỏ đen, ức cũng có vệt màu đen lan xuống lồng ngực. Chú ý con
khướu đen nào có vệt đen nào càng dài càng quí.
Khướu bạc má:
tòan thân có màu hung hung đỏ, hai bên má có đốm trắng bằng móng tay.
Là lọai khướu có giọng hót hay và đa dạng nhất, thông minh nhất trong
các lọai chim khướu. Từ “khướu bách thanh” là dùng chỉ khướu bạc má.
Khướu bạc má có thể bắt chước rất nhiều giọng, giọng hót dài, đa âm đa
sắc. Đặc biệt là khướu bạc má sống tại vùng Blao và Lâm Đồng.
Khướu
rất nhát người, thấy người đến gần lồng là nhảy tứ tung, dễ gãy đuôi,
tróc trán. Nên phải cần có áo lồng và đặt vào nơi yên tĩnh. Khi quen
dần mới từ từ tháo áo lồng.
Khướu mới mang về rất nhát và rất
yếu vì mất nhiều nước. Lúc này ta nên pha sữa đút cho chim uống từ từ
(chim sặc là chết ngay). Sau đó để vào nơi yên tĩnh cho chim mau lại
sức. Chim trống chú ý vùng lông bao phủ hậu môn, lông có màu vàng khét.
Khướu lớn con (dài từ 20 – 24 cm) và hay nhảy tung lồng nên nuôi vào
lồng tre/mây có đường kính 40 cm (lọai 72 nan) cao chừng 60 – 80 cm. Cầu
lớn bằng ngón tay để cho khướu có thể đứng trên đó vững vàng.
Chim
khướu uống rất nhiều nước. Thiếu nước, chim há hốc mỏ để thở và sẽ
chết ít lâu sau đó. Vì vậy cần chú ý cung cấp nước đầy đủ cho chim. Nuôi
khướu cần phải vệ sinh lồng và năng tắm nước thường xuyên. Khi tắm
nước cần phải sưởi ấm cho chim ngay.
Thức ăn cho chim cũng dễ
kiếm, ít tốn kém. Chỉ cho chúng ăn chuối trộn với cám Ba Vì, hoặc hỗn
hợp gạo trộn trứng. Có thể dùng bột đậu phụng (lạc rang) trộn chung với
lòng đỏ trứng vịt cho chim mau căng, hót hay. Chim càng căng lửa sẽ
càng hót hay, cung cấp thêm gián đất, dế, cào cào, thằn lằn hoặc thịt
bò xé nhỏ để chim tăng thêm sức đề kháng.
Nhân tiện, xin trích nguyên văn cách thuần dưỡng chim khướu trích từ nguồn cuocsongviet.com. Bài viết dưới đây:
“ Muốn thuần hóa chim khướu có hiệu quả, theo các nghệ nhân Nguyễn Phúc
Liêm, Thừa Nhân Đạo, Lê Trương và một số nghệ nhân Lê Văn Thành, Nhất
An… phải hết sức tốn công và kiên nhẫn.
Chim non tại ổ chưa đủ
lông đủ cánh (chưa ra ràng) chúng chưa đủ trí khôn để nhận ra mồi,
chưa bay được thường chỉ là nhờ vào ba mẹ đút mớm.
Người ta làm
cho chúng một nhân tạo mô phổng theo tổ thật của chúng trên rừng, giử
không khí ấm nhưng thoáng. Cách một giờ đút mồi một lần vì chúng tiêu
hóa thức ăn nhanh để mau lớn. Khi đói, thấy người, chúng há mỏ ra chờ…
Còn khi no, dù có cạy mỏ vẫn không hé. Chừng 6 tuần tuổi chúng biết bay
nhảy. Độ 2 tháng , chúng tập hót, ban đầu là đơn âm, không đa âm trầm
bổng. Chúng ta có thể thả như nuôi gà vịt, tối chúng biết vào lồng ngủ.
Chim trưởng thành khó nuôi hơn. Chúng bay nhảy tứ tung để thoát thân
nên dễ bị bể đầu sứt móng, có con vài hôm lăn ra chết. Vì vậy, để hạn
chế phản ứng, ta nuôi trong lồng được phủ kín có để sẵn nước, sâu,
chuối chín. Lồng chim phải treo nơi thanh vắng… đở cho chim hỏang hốt.
Vài ba hôm, hạ lồng xuống thay thức ăn rồi treo lên chỗ cũ..áo phủ lồng
hé dần cho chim quen với bên ngoài. Thường thì mất 4 tháng chim mới
quen, nửa năm chim mới thuần thục.
Khi thuần thục rồi, chim
hót rất hay và giữ được ”giọng rừng”, khác với chim khướu non ta nuôi
từ bé giọng hót không điêu luyện. Vì vậy, nghệ nhân thích thuần dưỡng
chim khướu bổi hơn.
Người nuôi chim thường khó tính, mua, họ,
chọn mỏ, mắt, lông, chân, ngón, móng… phải hòan chỉnh, còn có chút ”tì
vết” dù hót có hay ta cũng….thả, không tiếc vì ít giá trị.
Cuối cùng, các nghệ nhân nuôi chim cho biết: Chim hót rất ưa tắm, vài ba
ngày phải cho tắm một lần, mỗi lần 15 phút. Khi tắm phải sang lồng
chim khác cho chim, phải giữ lồng cho sạch sẽ, nghĩa là vệ sinh cho
chim.”
Chim khướu thường đẻ vào
mùa hè, tức là từ tháng 4 đến tháng 6. Ổ thường được làm trên các cây
cao trên lưng chừng núi. Mỗi ổ chứa khỏang 3 – 5 quả trứng. Chim ấp 15
ngày trứng nở. Chim non sau 45 ngày có thể tự kiếm ăn. Đến 4 – 5 tháng
tuổi, chim thay lông trưởng thành. Lúc này chim non bắt đầu tập hót,
giọng sẽ từ từ lớn dần.
Chú ý:
-Khướu có mỏ hở hoặc mỏ kênh sẽ hót được rất nhiều giọng.
-Khướu có đuôi tròn khi nhảy thường xòe đuôi. Khi chim thuần, chim “hót hay múa đẹp” dễ dàng.
-Chim trống chú ý vùng lông bao phủ hậu môn, lông có màu vàng khét.

Cây cảnh 10 tỷ - 100 tuổi
|
Ông Nguyễn Gia Hiền bên cây sanh có tuổi thọ 4 đời của mình.
|
|
Cây được trồng trên
một tảng đá cổ, rễ quặp sâu vào tảng đá. Toàn bộ cây được đặt trong một
bể chứa bằng xi măng hình chữ nhật có chứa nước sạch.
|
|
Cây sanh này có thế Phu thê (thế chồng vợ) – thế cây này thể hiện cho một gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
|

Chim cu gáy
(Sẻ Xanh) - Chim cu gáy tên khoa học: Streptopelia senegalensis, Streptopélia Chinensis
Tên tiếng Anh: Laughing Dove, Spotted Dove
Chim cu cườm (Spotted Dove)
Chim Cu Gáy, còn gọi là chim Cu là loại chim thường gặp nhất ở vùng
thôn quê yên tĩnh. Từ Bắc chí Nam, ở đâu có đồng ruộng là ở đó có Cu
gáy sinh sống. Chúng cần dựa vào người mà sống, vì thức ăn của Cu Gáy
chủ yếu là lúa, đậu, mè, là những nông sản do nông dân làm ra.
Cu Gáy có hai loại :
- Cu Cườm, còn gọi là Cu Đất, có cườm ở cổ.
- Cu Ngói, thân hình nhỏ hơn Cu Cườm, toàn thân lông màu hung đỏ, cổ không cườm mà thay vào đó là một vạch đen quanh cổ.
Đúng ra phải kể thêm một loại Cu nữa là Cu Xanh, còn gọi là Cu rừng,
vì chúng chỉ sống ở rừng. Cu Xanh thì toàn thân lông màu xanh lá cây,
thân hình cũng lớn bằng Cu Gáy.
Thường thì những người thích
nuôi Cu Gáy là những người già, những lão nông. Họ treo một vài lồng
chim nhỏ ở trước hiên nhà để thỉnh thoảng nghe được vài câu “Cúc cu
cu…” và lấy làm đắc ý.
Người chưa hề nuôi chim Cu, chưa hiểu
rõ đặc tính của chim Cu ra sao, thì thường hay thắc mắc không hiểu loại
chim này có gì đáng hấp dẫn đến độ có người mê nuôi chúng đến như thế.
Người ta thường kể cho nhau nghe những chuyện khó tin nhưng lại là
chuyện có thật : nhưng có những người thương con Cu gáy đến độ nhà cháy
không lo “chạy” đồ đạc đắt giá trong nhà mà chỉ vội vàng xách chiếc
lồng Cu vì sợ chết con chim quí hóa. Có người chạy giặc mặc cho vợ con
tay xách nách mang đồ đạc, còn mình thì chỉ khư khư giữ chiếc lồng chim
Cu.
Như vậy thì loại chim tưởng là tầm thường này chắc hẳn
cũng có những ưu điểm bất thường mà người đời chưa hiểu rõ nên cho là
tầm thường chăng?
Hình dáng : Chim Cu Gáy hình dáng như một
chú bồ câu sẻ, cổ có cườm bao hết vòng giáp cổ thì gọi là cườm liên
hoàn. Cườm liên hoàn thì vô cùng quí hiếm, vài trăm con mới có được một
con. Lông chim có màu xám hồng ở phần đầu, ức và bụng. Phần gián cánh
lông màu đen, và trên cánh có những vệt đen nhỏ tạo thành những đốm vảy
qui trên cánh.
Nhưng với một chim Cu thuộc vào loại tốt nhất mà người sành điệu lựa nuôi thì phải có những điểm đặc biệt sau:
- Nhất Huỳnh kiên: Tức là chim có cườm màu vàng. Cườm này phải xuống
tận vai nhưng không đóng ở trên lưng. Dĩ nhiên loại chim này hiếm khi
được gặp.
- Nhì Liên giáp: Tức là hình dáng của chim giống như một cái bắp chuối, hai đầu nhỏ, giữa phình ra, trông rắn chắc, gọn chặt.
- Tam Quá khóe: Có cái chỉ màu đen chạy dưới khóe mắt, dài quá khóe mắt một chút mới tốt.
- Tứ Chân khô: Có nghĩa là chân chim phải vuông cạnh và khô. Vảy đóng hai hàng trơn, đóng chặt, nổi mốc lên.
- Ngũ Liên hoàn: Cườm phải đóng giáp vòng hết cổ mới thật tốt. Thường
thì chim chỉ có cườm đóng ở phần trên cổ mà thôi, phần ức không có
cườm.
- Lục Cườm rựng: Tức là có cườm lót. Chim mà có cườm rựng là chim có gù hậu, tức là gáy dai dẳng.
Tất cả những con chim Cu nào có một trong những đặc điểm trên đây đều thuộc loại chim quí hiếm, dùng làm Cu mồi rất tốt.
Ngoài ra, cũng phải lưu ý tới những chi tiết quan trọng sau đây:
- Chim Cu mà đuôi vót, tức là ở bắp đuôi thì lót, chót đuôi thì nhỏ lại mới là con chim tốt và khôn.
- Chim có gián cánh, tức là có lông trắng ở trên một cánh hay ở cả hai cánh. Đó là chim tốt nên chọn nuôi.
-Chim có móng trắng gọi là Bạch Đề : chỉ cần có một móng trắng hay nhiều móng trắng là chim quí hiếm.
-Chim có màu đỏ là chim sát thủ : tức là chim rất dữ, chọn làm mồi thì chỉ toàn gặp may.
Ngoài ra, ta còn phải chọn chim có đầu nhỏ, có mỏ cong, có hình bầu,
có cổ lãi (cổ cao), có chân thấp, có đuôi thon, có cánh phủ mình hay
cánh chéo, lông phủ đầu gối…
Xem thế đủ thấy chọn một con chim
Cu Gáy thật hay cũng khó khăn như chọn một gà nòi đá độ. Chọn gà nòi
người ta cũng chọn đầu, cổ, lưng, lườn, ghim, chân, vảy, móng, đến cánh
gà, đuôi lao… À thì ra đây là giống để đá. Con chim Cu gọi là hay là
con chim dùng để làm cu mồi. Giống Cu mồi thì hung hăng ham đá, vì vậy
mấy con khác mới thi nhau sa vào bẫy rập của người gác Cu.
Giọng gáy của chim Cu : Người không rành về chim Cu thì cứ tưởng rằng
giống chim này chỉ có một giọng buồn tẻ là lúc nào cũng gáy : Cúc cu cu
mà thôi. Chính vì hiểu sơ sài như vậy nên người ta mới băn khoăn tự
hỏi tại sao lại có người chịu khó nuôi chim Cu cho uổng công tốn lúa
như vậy. Chẳng lẽ trên đời này không có chim nào hót hay hơn để chọn
nuôi hay sao?
Sự thực thì Cu Gáy có nhiều giọng, mà chỉ có người rành rẽ về chim Cu mới biết rành rẽ mà thôi.
Trước hết, ta thấy chim Cu có cả thảy 5 giọng là giọng trơn, giọng một, giọng hai, giọng ba, giọng cà lăm.
-Giọng trơn : Cúc cu cu (mỗi lần gáy chỉ thốt lên 3 tiếng đơn giản cụt ngủn)
- Giọng một : Cúc cu cu…cu (có thêm một tiếng cu hậu ở đằng sau nghe hay hơn)
- Giọng hai : Cúc cu cu… cu cu (có thêm hai tiếng cu hậu ở đằng sau nghe càng hay hơn)
- Giọng ba : Cúc cu cu… cu cu cu (có thêm ba tiếng cu hậu ở đằng sau
nghe càng hay hơn nữa. Ở đâu mà có con Cu rừng hót hay như thế này thì
dù có xa xôi đến mấy người gác Cu cũng mò đến bắt cho bằng được, vì đây
là chim quí khó tìm).
-Giọng cà lăm : Con chim này gáy giọng
lúc thế này lúc thế khác, tiếng nọ xọ tiếng kia nghe không ra làm sao
cả. Cũng như cách nói chuyện của người bị bệnh cà lăm vậy, chim này chỉ
có đem thịt mà thôi.
Nghe giọng chim Cu gáy xong ta còn phải
tìm hiểu xem cái âm của nó hay dở ra sao nữa. Đây là một việc cực kỳ
khó khăn mà chỉ những người lão luyện trong nghề mới phân tích được kỹ
càng, dù là tai họ chỉ mới nghe phớt qua. Còn người mới vào nghề thì
chắc chắn không tài nào hiểu nổi.
Giọng chim Cu gáy có 4 âm chính : âm thổ, âm đồng, âm son, âm kim.
-Âm thổ : chim gáy có âm thổ thì giọng trầm. Loại chim này được đánh giá là loại chim khôn nhất. Trong âm thổ có 4 âm sau đây :
1.Thổ đồng : âm trầm mà ngân vang như tiếng chiêng cồng.
2.Thổ bầu: âm trầm mà ồm ta lên
3.Thổ sấm : âm trầm mà rền như tiếng sấm
4.Thổ dế : âm trầm mà rỉ rả nỉ non như tiếng dế
-Âm đồng : chim gáy có âm đồng thì tiếng ngân vang. Âm đồng cũng có nhiều loại như sau :
1.Đồng pha thổ : âm ngân vang nhưng lại trầm trầm
2.Đồng pha son : âm càng lúc càng ngân vang
3.Đồng pha kim : âm càng lúc càng nhỏ nhưng vẫn vang xa
-Âm son : chim gáy có âm son có người gọi là âm chuông vì giọng chim
ngân vang như tiếng chuông rền, nghe có vẻ hùng tráng oai vệ. Âm son
cũng có nhiều loại như :
1.Son pha đồng : âm to mà rền vang như tiếng sấm
2.Son pha kim : âm khởi đầu rền vang như tiếng chuông ngân sau cứ nhỏ dần…
-Âm kim : chim gáy có âm kim thì tiếng nhỏ và vang xa. Âm kim cũng có nhiều loại như :
1.Kim pha son
2.Kim pha thổ
3.Kim pha đồng
Điều đó đủ cho ta thấy muốn phân tích một giọng chim Cu thật chính xác
không phải là chuyện dễ dàng. Ai hiểu thấu đáo được điều này chắc chắn
người đó sẽ gặp nhiều điều thú vị khi lắng tai nghe chim đang gáy. Đến
đây, chắc chắn chúng ta không còn ngạc nhiên nhiều khi biết tại sao
người ta lại có thể say mê nuôi một con chim có bề ngoài không sắc sảo
này đến thế. Đến đây, chúng ta có thể cảm thông được về sự mê luyến cao
độ của người nuôi chim đối với con chim quí hiếm của mình. Vì rằng,
chọn được một con chim mồi vừa ý có những đặc điểm ưu việt kể trên đâu
phải là chuyện dễ. Đôi khi trăm con, hoặc ngàn con mới có một. Chắc gì
trong một đời người có thể chọn cho mình được một hoặc hai con mà nuôi ?
Do đó, giá trị con Cu mồi tốt nhất cũng độ nửa lượng vàng nhưng người
ta vì quá quí trọng nó đến nỗi có người dù nghèo nhưng ai mua với giá
nào cũng không bán, thề “sống nuôi chết khôn”, đôi khi còn dám đem thân
mình bảo vệ con chim.
Mặt khác, chim càng quí người ta lại
càng cố giữ gìn cẩn thận. Vì như chúng ta đã biết, con Cu gáy dù nuôi
liên tục đến mười năm, người mến chim nhưng chim lại chẳng mến người,
hễ sút ra khỏi lồng là cắm đầu bay thẳng không hề ngoảnh đầu ngó lại.
Hễ sẩy là mất. Vì vậy, có người tiếc hùi hụi con chim quí đến bỏ ăn bỏ
ngủ, đau ốm liệt giường. Có người phải bỏ ra hàng mấy tháng trời lặn
lội đi tìm con chim từ rừng này sang rú khác, từ làng nọ qua làng kia,
bắt lại được mới thỏa lòng.
Cách phân biệt chim trống mái:
Giống Cu gáy có điểm lạ là trống, mái gần như giống nhau, khó phân
biệt được. Giống từ hình dáng đến cườm và cả giọng hót nữa. Người nào
lão luyện trong nghề lắm cũng chỉ đoán được đến 50% là cùng.
Thường thường thì chim mái có cặp mắt mơ buồn hơn chim trống, đầu chim
mái nhỏ hơn, và hai cái “ghim” ở hai bên hậu môn nở hơn (điều này rõ
nhất ở mái già đã đẻ nhiều lứa).
Con chim Cu mái trong thời rụng
trứng (tức là khoảng đầu mùa mưa) sắp đẻ thì hung hăng ghê lắm, lúc nào
cũng gù, cũng gáy. Hễ nghe tiếng chim lạ gáy ở đâu là liền bay tới cho
bằng được, dù đó là chim trống hay chim mái nó cũng đá. Vì vậy, đi bẫy
chim trong những tháng đầu mùa mưa người ta bẫy được chim mái rất
nhiều.
Chính vì không phân biệt được trống mái một cách rõ
ràng, dứt khoát nên nhiều người cắc củm nuôi con chim đến một vài mùa
lông (một mùa đổ lông là một năm) mới biết được đó là con mái thì…
không còn nỗi nản chí nào bằng.
Thú nhử chim Cu: Nhử
chim Cu hay gác Cu là một thú vui nhất của người nuôi Cu Gáy. Người ta
nuôi Cu là để bẫy Cu. Bẫy Cu không ai nhằm vào mối lợi về kinh tế mà là
cố tìm cho mình một con chim quí về nuôi. Vì như ai cũng biết, giá một
con chim bổi đâu có bao nhiêu tiền. Bắt được chim bổi tồi thì chỉ đem
về rôti hoặc bằm nhỏ vò viên nấu cháu bồi dưỡng sức lực bù vào những
ngày gian khổ lặn lội trong bưng, trong rẫy, đến nỗi quên ăn mất ngủ,
mặc cho muỗi đốt, đỉa bu mà không dám cục cựa.
Ở đời có bốn cái ngu:
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.
Ta hãy phân tích xem tại sao ông bà ta lại cho việc “làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu” lại là bốn cái ngu?
-Làm mai tức là bỏ công ra mai mối cho hai anh chị nên vợ chồng. Đó là
việc ai cũng thấy nên làm, nhưng thường thì hậu quả mang lại không hay
ho gì cho mình cả. Người ta ăn ở với nhau hạnh phúc chưa chắc gì người
ta đã nhớ ơn mình, nhưng khi người ta lục đục gây gổ nhau là vợ chồng
lôi mình ra trách cứ nọ kia. Họ đổ tội cho mình thay mặt ông tơ mà se
lộn mối chỉ hồng nên ngày nay vợ chồng mới bị lâm cảnh “Cơm không lành
canh không ngọt”.
-Lãnh nợ tức là đứng ra bảo lãnh vay nợ cho
người khác. Việc này thì ai vay người ấy hưởng, chứ mình không “xơ múi”
gì. Thế nhưng, nếu việc trả nợ không “êm chèo mát mái” nghĩa là tới
hẹn trả nợ mà chưa thanh toán được hoặc không có khả năng thanh toán
thì người chủ nợ cứ túm áo mình mà đòi. Lãnh nợ... ơn đâu không thấy,
chỉ thấy mình ngu dại “ách giữa đàng quàng vào cổ” mà thôi !
-Gác Cu hay bẫy Cu đâu phải là chuyện dễ dàng. Ai đi gác Cu cũng muốn
tìm cho mình những con Cu hay, mà Cu hay là giống Cu khôn ở trong rừng,
trong rú, trong rẫy, trong nương có khi ở cách xa nhà năm ba chục cây
số là thường. Đã thế lại không tiện đường xe cộ, ghe thuyền nên nhiều
khi người gác Cu phải xắn quần áo lặn lội qua mương qua rạch để đến nơi
treo lục, đặt bẫy. Chuyện té lên té xuống, rách áo xước da cũng là
chuyện thường tình. Đến nơi, treo lục xong là tìm một nơi kín đáo ngồi
rình với tất cả sự hồi hộp đến nơi muốn ho cũng không dám, kiến cắn
cũng không dám gãi vì sợ động. Mà nào kết quả được gì ? Con Cu khôn ít
khi vướng bẫy, mà còn Cu dại thì đáng giá mấy đồng ! Đã đi gác Cu thì
ai cũng biết đến điều đó, nhưng vì sự đam mê của nghề nghiệp nên người
ta lúc nào cũng hăm hở khăn gói lên đường. Người ngoài cuộc cho đó là
cái dại kể cũng phải !
- Đến việc cầm chầu thì quả thật… là
ngu ! Người được mời cầm chầu là người có chức vị lớn trong làng cũng
có nghĩa là người có kiến thức nhất nhì trong làng. Cầm chầu là một
vinh dự lớn lao chứ không phải ai muốn làm cũng được. Nhiệm vụ của
người cầm chầu là khi xem diễn tuồng đến câu hát nào hay (có ý nghĩa)
hoặc đoạn nào diễn viên diễn qua xuất sắc thì đánh một hay hai ba tiếng
trống để tán thưởng. Nếu thấy hay quá thì có thể giáng luôn một hồi.
Thế nhưng điều mình cho là hay mà người khác cho là dở thì sao đây ? Mà
trên sân khấu, chắc gì diễn viên đã bằng lòng với tiếng trống khen
thưởng hay chê bai của mình ? Xin nói thêm nếu hát dở thì người cầm
chầu sẽ đánh đùi trống vào thành trống bằng một hay hai tiếng cắc.
Thùng là khen, cắc là chê. Như vậy người cầm chầu chỉ là một vinh dự
hão, đâu có ăn được gì mà để cho người ta chê bai mình ? Đó không phải
là một cái ngu sao?
Đấy, trong bốn cái ngu đó có cái ngu gác
Cu. Kể ra cũng mỉa mai thật. Nhưng thôi, ta hãy gác chuyện đó sang một
bên, ngu hay khôn là do cái nhìn của mỗi người. Bây giò chúng ta đi
thẳng vào sự chuyên môn của nghề gác Cu. Muốn đi gác Cu thì người ta
phải có Cu mồi và đồ nghề mới đi bẫy được.
-Cu mồi : Cu mồi
tốt nhất là chim sát thủ hay ít ra cũng là con chim gáy thật hay có gù
hậu. Khi treo lục lên cây hoặc đặt bẫy rập hay cái úp dưới đất, con Cu
mồi phải gù tiền, tức gáy thúc để chim ngoài tức mà vào bẫy. Khi Cu
rừng đến gần bẫy, Cu mồi phải biết gù hậu để thúc giục con bổi vào
tròng, như vậy mới là chim mồi hay. Còn nếu chỉ biết gù tiền, mà chim
rừng lại gần lại lơ láo đứng nhìn, không biết gù hậu thì làm sao bẫy
được con mồi?
Con chim sát thủ là con chim dữ lúc nào cũng háu
đá, giọng gáy tiền cũng như hậu đều có vẻ thách thức muốn đấm đá. Loại
chim dữ này thường có nhiều ở miền Trung và vùng Tây Ninh. Người ta
chọn những con có cườm rựng, cườm liên hoàn. Những chim có màu lông :
- Xám trắng : còn gọi là bạch tuyết, chim này rất dữ đi đánh được cả bốn mùa trong năm.
- Chim đen : gọi là đen chứ nó không phải đen mà lông chỉ sậm hơn chim
thường một chút. Loại này nuôi khó nổi, tức là khó thuần dưỡng, nuôi
lâu gáy, nhưng khi đã nổi rồi thì rất dữ.
Trong tay đã có một con Cu mồi dữ rồi thì việc gác Cu đã khá dễ dàng.
Cũng xin được trình bày thêm, là người ta dùng Cu Cườm để làm mồi
không dùng Cu Ngói làm mồi. Nếu có dùng Cu Ngói làm mồi thì chỉ để bắt
Cu Ngói mà thôi, Cu Cườm không đấu đá với Cu Ngói.
Cu mồi là
Cu Cườm không những bắt được Cu Cườm rừng mà còn bắt luôn cả Cu Ngói và
tất nhiên cũng không ai dùng cu mái làm mồi cả.
Đã có Cu mồi
rồi bây giờ phải sắm đồ nghề. Đồ nghề thì có lục treo, lục chạy, cái úp
và bẫy rập. Dĩ nhiên, mỗi thứ có một cách bẫy riêng, bẫy khác nhau và
còn tùy theo hoàn cảnh mà dùng từng loại cho thích hợp.
- Lục
treo : là cái bẫy rập, ở trên có cái móc để máng vào nhánh cây. Chim
ngoài từ nhánh chuyền vào là bị lưới rập rập xuống, loại này thường
dùng ở miền Trung.
- Lục chạy : ở trong Nam thường dùng. Lục
chạy được gác trên các chạng ba cây, bên dưới lục móc sẵn cây sào dài
để giữ thăng bằng cho bẫy.
- Cái úp : là một cái vòm bằng
lưới, bên trong nhốt con Cu mồi và rải lúa để dụ chim rừng sà xuống ăn.
Giống chim trời khi bay ngang hễ thấy có Cu lạ (tức là Cu mồi) dưới
đất là sà xuống, vì biết nơi đó có thức ăn. Con chim tham mồi nên mới
vướng giò.
- Dò : là một loại bẫy đơn sơ, chỉ là một đòn tre
ngắn như chiếc đũa vót rất mảnh, một đầu cắm xuống đấtm đầu kia làm một
cái thòng lọng bằng sợi chỉ nhỏ mà bền. Chim rừng sà xuống ăn mồi bị
vướng cổ hay vướng phải chân lúc nào không hay biết, chừng biết ra thì
đã muộn màng. Dò còn là một loại bẫy cũng làm bằng một que tre nhỏ, mỗi
một đầu cắm xuống đất còn đầu kia trét nhựa dính, chim say mồi đâu
biết nguy hiểm để tránh, dính vào que nhựa thì biến thành… xâu chả thơm
lừng cho người.
-Đánh rập : là dùng hai tấp lưới dài lợp banh
ra hai bên, ở giữa thì rải lúa và gài vài con chim mồi. Cu rừng thấy
thức ăn nước uống bày sẵn thì sà xuống cả bầy, người đánh bẫy lừa thế
giật dây cho hai tấm lưới úp lại là bắt được tất cả.
Đánh chim
theo cách thức nào cũng gây sự hồi hộp, hứng thú cho người đánh bẫy.
Công việc này đôi khi cũng gây cho mình nhiều điều phiền phức như phải
mất công rình mò, chợ đợi…thế nhưng lại là cái thú vị tuyệt vời, một sự
sướng thỏa mà không phải ai cũng có dịp hưởng được.
Tuy nhiên, cái
úp và lưới rập chỉ để bắt Cu thịt chứ không phải cách để bắt Cu quí về
nuôi. Muốn bắt được Cu hay thì phải đánh bằng lục treo hay lục chạy,
vì ta đã có dịp biết trước con chim bổi là loại hay dở thế nào rồi.
Thức ăn của chim Cu Gáy : Ca dao ta có câu :”Cu Cu ăn đậu ăn mè, Bồ Câu ăn lúa, Chích Chòe ăn sâu”.
Đây là câu hát mà ông bà ta xưa nhắc nhở cho nhau biết, ai trồng đậu
trồng mè thì ráng mà canh giữ chim Cu sà xuống phá hại. Sự thực thì
ngoài đậu, mè ra thì chim Cu Gáy còn ăn cả lúa nữa. Đúng ra, lúa là
thức ăn chính của loại chim này.
Nhà nghèo nuôi chim Cu thì người ta chỉ cho ăn lúa như kiểu nuôi gà mà chim vẫn sống, vẫn sung, vẫn siêng gáy.
Nhà giàu thì ngoài lúa ra còn cho Cu Gáy ăn thêm đậu xanh, mè để tăng
thêm chất bổ dưỡng. Người nào có khả năng hơn nữa thì cho chim ăn một
thực đơn đặc biệt hơn. Đó là lúa tiêu, một loại lúa nhỏ hột, hột chắc
mà tròn rồi thêm hột kê, mè đen, hột cải, đậu xanh. Chim ăn như vậy
nhiều khi còn sướng hơn cả chủ!
Cách nuôi chim Cu bổi:
Chim mới bẫy về gọi là chim bổi. Chim bổi thì rất nhát gặp người đến
gần thì hốt hoảng bay tán loạn cả lên, cho nên chim bị bể đầu sứt trán,
rụng lông từng chùm là chuyện thường tình. Vì vậy, nuôi Cu bổi ta cũng
phải có phương pháp riêng để chim khỏi chết một cách đáng tiếc.
Chim mới bẫy về, đi đường đói khát, nên về nhà ta đút cho nó ăn vài ba
hột bắp nhỏ hoặc năm bảy hột lúa và cho uống nước để chim “tỉnh hồn
lại vía” đã. Đó là cách giúp chim tiếp tục sống để thuần dưỡng. Sau đó
ta nhốt chim bổi chung chuồng với các chim bổi cũ (thường thì người đi
gác chim có một cái lồng lớn để nhốt tất cả chim bổi cũ mới vào để
thuần dưỡng cho tiện, và cũng để lựa dần những chim tốt ra nuôi, chim
xấu làm thịt). Chim mới thấy chim cũ lại cóng ăn mồi, nó cũng bắt chước
đến ăn. Ta cứ cho chim sống như vậy cho quen dần nếp sống tù túng để
cho chim dạn dần.
Sau đó, lựa con chim nào tốt tướng, dữ dằn thì bắt ra nuôi riêng.
Trong trường hợp nhà không có chim bổi cũ, chỉ có một con bổi mới, thì
việc trước tiên là ta cũng phải đút bắp lúa cho chim ăn để khỏi mất
sức rồi mới nhốt vào lồng nhỏ. Người ra nuôi chi Cu gáy trong một loại
lồng nhỏ đặc biệt bằng mây hay tre, hình dáng giống như trái bí rợ.
Lồng tuy chật chội nhưng lại thích hợp với loài Cu Gáy vì Cu Gáy đứng
đâu chỉ đứng yên một chỗ chứ không bay nhảy tứ tung như các loại chim
khác. Do đó, nhốt chim trong lồng lớn lại không ích gì.
Nuôi
Cú Gáy trong lồng nhỏ có điều lợi là chim bổi thì mau thuần, mà chim đã
thuần thì mau sung. Nuôi chim mà lúc nào cũng sung cũng gáy, thử hỏi
ai lại không thích?
Chim bổi bắt về, ta nhốt vào lồng, bên
ngoài nên phủ áo lồng cho chim đỡ sợ, bên trong để cóng nước, cóng lúa,
cóng khoáng hay đất cho chim ăn được vài ngày. Xong đâu đó, ta treo
lồng vào chỗ yên tĩnh để chim bớt sợ hãi. Sau đó, cứ vài ba ngày, ta
thăm lồng một lần, mỗi lần như vậy nhớ châm thêm nước và thức ăn cho
vài ngày tới.
Công việc thuần dưỡng chim, ta cứ từ từ mà làm,
muốn gấp gáp cũng không thể được. Vì chim bổi mau thuần hay không một
phần là do ở mình, mà một phần cũng do ở chim. Có nhiều con chim dạn
đến nỗi chỉ bắt về một vài hôm đã gáy trong lồng, tiếng gáy như chuông
rền có vẻ thách thức chim khác. Nhưng cũng có nhiều con nuôi đến ba năm
mà chưa… mở miệng ! Nuôi những con chim khó “nổi” này rất chán, tuy
nhiên người nuôi vẫn hy vọng rằng hễ “có tật thì có tài”, những con
chim như vậy khi đã nổi thì không chê vào đâu được.
Nuôi chim
Cu muốn mau nổi, thường ta nuôi trong nhà vài ba con trở lên. Con treo
nhà trước, con treo nhà sau, hoặc con treo trên lầu, con treo dưới lầu.
Trong trường hợp nhà ở chật chội không đủ chỗ treo lồng, thì ta vẫn có
thể treo gần nhau, nhưng những con xen kẽ ta phải trùm lồng kín mít để
chúng chỉ nghe tiếng gáy mà không trông thấy nhau. Đôi khi, treo như
vậy chim lại mau sung vì chúng cũng như loài gà, tức nhau vì tiếng gáy.
Thỉnh thoảng, người nuôi chi Cu Gáy cũng cho hai con “kè” nhau một
chút cho chúng hăng lên. Chim khi đã sung thì lúc nào cũng năng nổ, hễ
người nuôi búng tay là gáy, hoặc vừa nghe chim khác nổi một vài hậu là
nó cũng tức khắc hăm hở trả lời, tỏ ra ta đây không chịu thua sút một
ai!
Cũng xin được nhắc thêm, chim nuôi mãi trong lồng thì lông đuôi
dài sẽ vướng víu. Vì vậy, chủ nuôi cứ vài tháng một lần, nhớ hớt bớt
lông đuôi, lông cánh để chim xoay xở dễ dàng trong chiếc lồng vốn chật,
khỏi gãy đuôi xơ cảnh, mất thẩm mỹ.
Săn sóc cho chim:
Việc chăm sóc cho chim Cu không có gì khó khăn vất vả. Ta chỉ vệ sinh
lồng cho sạch sẽ, cho ăn uống đầy đủ là được. Với con chim suy, mỗi tuần
ta nên cho uống hai lần, mỗi lần một viên dầu cá. Và chỉ cần uống một
tuần là đủ. Nếu muốn cho uống lại thì nên để đến tháng sau.
Nuôi chim Cu, thường ta thấy chúng bị hai thứ bệnh : đó là bệnh đau mắt và bệnh tiêu chảy.
Với bệnh đau mắt thì người chuyên môn có một lối trị riêng : người ta
đâm vài trái ớt hiểm, môi vào hai đầu cánh và bôi ngay vào mắt chim,
con chim xót mắt, cạ mắt vào đầu cánh gặp ớt lại xót thêm. Nhưng khi ớt
hết cay thì chim lành mắt.
Riêng đối với bệnh tiêu chảy thì
ta có thể dùng thuốc Terramycine loại dùng cho gà, pha vào nước cho chim
uống vài ngày là khỏi.
Điều cần nhắc nhở thêm là trong lồng
Cu Gáy bao giờ cũng phải có cóng khoáng chất. Loại chim này rất thích
ăn khoáng, thiếu không được. Xin xem thêm bài nói về công thức chế biến
khoáng chất ở phần cuối sách. Người ta thường lấy đá ong cà nhỏ thế
khoáng cho chim ăn.
Tóm lại, chim Cu Gáy dễ nuôi, ít tốn kém lại ít
công chăm sóc. Tiếng gáy của chim không réo rắt như Họa Mi, không véo
von như Chích Chòe, nhưng cũng mang một sắc thái riêng, khiến người
nghe quen tai ai cũng sinh ghiền.
Vào những buổi trưa tĩnh
lặng, được nằm đong đưa trên một chiếc võng ở chái hè tại một vùng quê,
hay một vùng ngoại ô nào đó, những tiến cúc cù cu… quen thuộc vọng vào
tai, chắc chắn sẽ gây cho ta nỗi xao xuyến trong lòng. Những tiếng cúc
cù cu… trầm lắng nhưng thân thương, mộc mạc nhưng đủ sức quyến rũ, đủ
sức gợi nhớ trong ta những kỷ niệm mơ hồ êm đềm trong trí về một vùng
quê hương thanh bình nào đó mà ta đã có dịp đi qua. Cúc cù cu…, tiếng
gáy của con chim bình dị về thanh sắc như hình ảnh người dân quê thật
thà chất phác, quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Con chim Cu tượng trưng
cho hình ảnh quê hương thân thương mà ta không tài nào quên được.
Những ai đã từng nuôi chim Cu Gáy, chắc chắn là những người nặng lòng
với mảnh đất quê hương. Một lần nằm nghe tiếng chim Cu là một lần khơi
dậy trong họ những phút giây thắm đượm tình quê.
