Lão nông hóa kiếp rồng tre 'không đụng hàng'


(Sẻ Xanh) - Tóc đã bạc phơ nhưng ánh mắt và những động tác chạm trổ bên những gốc tre già khô khốc, xù xì của lão vẫn còn tinh xảo lắm. Từ những gốc tre bị vứt bỏ, qua bàn tay điêu luyện của lão đều hoá kiếp rồng tre với nhiều thế đẹp mê mẩn lòng người. Lão là Lê Mưu, 90 tuổi, ở làng Long Hội (Hương Sơn - Hà Tĩnh).
 Lão Mưu tỉ mỉ săn tìm từng gốc tre có bóng dáng hình đầu rồng.
Ở cái tuổi “xưa nay hiếm” nhưng niềm đam mê, sáng tạo từ những gốc tre vẫn không ngừng tuôn chảy trong lão. Hình ảnh những rặng tre ngà ở miền quê thanh bình đã ăn sâu vào tâm trí lão. Kể từ khi từ giã sự nghiệp giáo dục, trở về với quê hương lão đã miệt mài sáng tạo, hoá rồng cho những gốc tre mà người dân nơi đây vẫn thường dùng để làm củi đốt cho sinh hoạt thường ngày.

Kẻ độc hành săn lùng… “cổ vật”

Lão Mưu nguyên là giảng viên, trưởng bộ môn triết học, lý luận Mác Lê Nin của trường Đại học Nông nghiệp 2 (tiền thân Đại học Nông lâm Huế), nghỉ hưu từ năm 1981. Mối căn duyên đưa đẩy ông đến với nghề hóa kiếp rồng tre cũng thật lạ lùng. “Nhiều lúc, nhà giàu có điều kiện mua sắm đủ các loại đồ chơi nghệ thuật đắt tiền về trang trí trong gia đình và mua tặng bạn bè, người thân, còn những người nghèo khó thì lại không có điều kiện như vậy. Tui nghĩ rằng, về hưu là quãng thời gian nhàn rỗi nhiều nhất phải làm được một cái gì đó cho ra hồn, vừa để cho vui cửa, vui nhà và vui đời. Thế rồi, tui quyết định làm con rồng tre giống như cái tên làng “Long Hội” (rồng hội tụ - PV) khi xưa” - lão Mưu nhớ lại.

Không phải ngẫu nhiên, để có được kỹ thuật “hành nghề”, lão Mưu đã bôn ba, lăn lộn suốt hàng năm trời, tìm đến một số nghệ nhân hội họa nổi tiếng ở miền đất xứ Nghệ xin học thêm. “Năm 1983, khi đã nắm khá vững chắc những kỹ thuật cơ bản, tui chính thức bắt tay vào làm con rồng tre đầu tiên. Đây là một loại hình nghệ thuật cổ truyền rất độc đáo, nguyên vật liệu lại sẵn có ở ngay bên cạnh nhà mình, hàng xóm mình mà lại không hề phải mất tiền mua…” - lão tâm sự.

Ngày lại qua ngày, lão một mình độc hành khắp các xóm làng ở các huyện miền núi dãy đất miền Trung săn lùng những gốc tre, cành tre, thân cây tre, có bóng dáng hình đầu rồng, râu rồng, đuôi rồng là xin cho kỳ được mang về tập kết tại sân nhà. Sau đó, lão chọn lọc xử lý tỉ mỉ phần thô, rồi đem ra phơi khô, ngâm xuống hồ nước, ngâm đất bùn khoảng 1 đến 2 tuần, rồi vớt lên đem gác vào chạn bếp phong khói. 


“Muốn làm được rồng thì phải trải qua những công đoạn cơ bản này, để đảm bảo rồng khi thể hiện được săn chắc, toát lên khí thế oai phong của nó và đặc biệt là không hề bị mối mọt xâm nhập”, lão Mưu chia sẻ.

Khi các công đoạn xử lý phần thô đã hoàn tất, lão lại tập trung vào tìm ý tưởng tạo dáng cho từng con rồng, lão tham khảo các sách lịch sử, viết, vẽ liên quan đến loài rồng, kiểu rồng từ trong triều đình cho đến đình, chùa chiền, miếu mạo ở Trung Quốc và Việt Nam để thể hiện ý đồ sáng tạo riêng của mình. 

Lão dựa vào từng loại vật liệu vẽ phác thảo, chắp nối, sắp xếp, liên kết các gốc tre phù hợp với thế rồng trên trời giáng xuống đất như rồng chầu, rồng đáp, rồng leo cây, rồng uốn lượn, rồng bay, rồng ngồi… Với lão, sư tử, hổ, voi hay hạc đều tượng trưng cho một thế, một cách sống riêng của nó nhưng ngưỡng mộ nhất vẫn là con rồng vì nó là biểu tượng cho sức mạnh, sự thông minh, cao thượng… “Tuy nhiên, để làm được một con rồng lớn hoàn chỉnh phải mất ít nhất ba bốn tháng, thậm chí là cả năm trời ròng rã” - lão Mưu cho hay.

Gần 30 năm gắn bó, lão Mưu chưa bao giờ có cảm giác chán nản hoặc ý định bỏ cuộc với nghề làm con rồng tre này, vì với lão, nó đã thẩm thấu vào xương thịt của mình mất rồi, chán làm sao được. Nhiều người dân trong vùng đã đặt cho ông một cái tên khá dí dỏm: “Ông rồng tre”.

Hàng… “không đụng”

Theo nhẩm tính sơ sơ của lão, gần 1.000 tác phẩm rồng trên chất liệu tre với đầy đủ chủng loại, kích cỡ, kiểu dáng, tư thế phong phú khác nhau đã được lão tạo tác. Trong đó có nhiều con rồng mô phỏng rồng thời Lý, Trần, Lê… Lão Mưu còn sáng tạo thêm hàng trăm con sư tử, hạc, voi… hết sức tinh xảo, chân thực và độc đáo đến phi thường.



Trong gian phòng hẹp ở phía đầu nhà, lão Mưu hóm hém kể: “Trong gần trăm sản phẩm, gồm nghê, hạc, voi, hổ, đại bàng, và những hình hài con người giàu cảm xúc như mẹ bồng con, ông dắt cháu… tất cả đều được tui miêu tả dựa trên những hình ảnh có thật mà tui bắt gặp trong đời”. Nhưng trong tâm khảm lão, con rồng là biểu tượng linh thiêng, cao quý, là sức mạnh của người Việt, bản ngã của dân Việt.

Trong hàng chục con rồng tre của mình, lão Mưu đã lựa chọn, chế tác được đủ các tư thế khác nhau gồm rồng bay, rồng chầu, rồng lượn… “Để có được những tuyệt tác rồng như thế là không hề đơn giản. Ngay cả khi đã làm xong rồi, nhưng nhiều lúc rảnh rỗi ngắm lại thấy chưa ưng ý là lại phải tháo ra làm lại, để tạo ra một thế mới hơn, thú vị hơn” - lão Mưu cười phèo trong sự sảng khoái.

Nắng chiều lướt phướt rơi, miên man gió. Câu chuyện lão Mưu “hóa kiếp” rồng tre vẫn chưa dừng lại, lão dẫn tôi lên nhà thờ của dòng họ ở ngay trong vườn nhà, những con rồng tre được lão sơn vàng óng treo lên khắp nhà thờ. Với lão, cặp rồng chầu trên bàn thờ dòng họ có tuổi đời lâu nhất, là một trong số nhưng sản phẩm đầu tay của “ông rồng tre” nơi xứ người miền viên ải này. Nếu như lão không cho biết đó là sản phẩm của mình làm từ tre thì chắc chắn bất cứ ai cũng sẽ bị nhầm rằng, đó là đôi rồng được mua sẵn từ hàng mã ở chợ về.

Nói về việc làm “khác người” gần 30 năm nay của mình, lão Mưu móm mém cười phèo: “Tui chơi rứa cho vui, rồi đam mê khi mô không biết nữa. Giờ mắt đã mờ, tai cũng nghe không được rõ nữa nhưng mà tui vẫn còn mê cái thú này lắm. Cứ khỏe trong người là tui lại đi nhòm ngó những gốc tre của làng xóm rồi xin, mua về làm cho vui. Có rứa tui ăn mới thấy ngon cơm”.

Nỗi lo thất truyền

Từ mấy năm nay rồi, lão Mưu nhiều lần đi vận động con cháu, người dân trong vùng, cả những người thân quen ở xa đến nhà để truyền dạy lại nghề làm rồng tre. “Tuy nhiên, học chưa được tuần lễ, họ đều bỏ về hết vì không ai có trí tưởng tượng và lòng kiên trì với nghề. Nay mai đi về bên kia rồi, tui chỉ lo lắng nhất là cái nghề truyền thống độc đáo này sẽ bị mai một mất thôi” - lão nhẹ lời buồn buồn.

Lão Mưu với những tuyệt tác rồng tre bay lượn đầy thần khí.

Với lão, làm nghệ thuật là phải có sự đam mê, không đam mê không bao giờ làm được. Nghề làm con rồng tre cũng vậy, hết sức khó khăn, phức tạp, từ khâu tìm vật liệu, chọn lọc, lắp ghép, chắp nối, kết cấu làm đi làm lại hàng chục, thậm chí là hàng trăm lần. Vì vậy, người không kiên trì, không có nỗi đam mê nghề nghiệp thực sự sẽ dễ bỏ cuộc giữa đường.

“Tạo thế uốn lượn được một con rồng trên gốc tre là cả một nghệ thuật, không giống như uốn các loại cây cảnh hay động vật khác, nó không có mẫu mã, vừa làm vừa suy nghĩ và tạo dáng, luôn phải có óc tưởng tượng phong phú. Nó đòi hỏi người làm phải cực kì nhẹ nhàng và kiên nhẫn” - lão Mưu tâm sự.

Trong căn nhà nhỏ nép mình dưới sườn đồi non tản, đôi bàn tay của người “nghệ nhân làng quê” uyển chuyển theo từng động tác nắn hàng trăm con rồng là gốc tre, đang ngày đêm miệt mài. Xế chiều, những vạt nắng đã dần tắt, chia tay người nghệ nhân vùng sơn cước… Và thế, lão lại lang thang “thổi hồn” để hóa kiếp cho những kiệt tác rồng tre.
Long Anh


Xem tiếp


Đại gia Đà thành lên đời nhờ... chim


(Sẻ Xanh) - Săn bắt, nuôi và bán chim rừng làm cảnh ở Đà Nẵng thời gian qua trở thành nghề hot và hái ra tiền của một số người. Nhiều ông chủ chỉ sau một vài năm buôn bán chim đã trở thành đại gia nhờ nắm được thị hiếu của người yêu chim cảnh...
Trước khi đến với nghề săn bắt chim, đại gia Vũ Tú Nam, quê Tiên Phước (Quảng Nam) chẳng có nghề ngỗng gì. Cưới vợ xong, sinh con đầu lòng, hai vợ chồng lâm vào cảnh túng thiếu. Để kiếm cơm hàng ngày, anh bàn với vợ mở quán cà phê cạnh sông Tiên, trên tuyến đường lên vùng cao Nam - Bắc Trà My.

Một buổi chiều ngồi nhìn mưa giăng trước nhà, lái xe đưa các sếp đi công tác vùng cao vào nghỉ chân tại quán, anh thấy ai cũng nâng níu mấy con chim non. Hỏi ra anh mới biết họ có thú chơi chim và mua những con chim non này rất đắt. Thế là anh nảy ra ý định đi bắt chim rừng về nuôi và bán lại kiếm tiền.

Anh kể: Nói là làm, việc bán cà phê giao cho vợ, anh bắt đầu cơm đùm gạo gói vào rừng săn chim. Chuyến đi đầu tiên kéo dài 5 ngày, anh mang về một bầy chim non chào mào, sáo... hơn 12 con để nuôi.

Hơn hai tháng sau, lứa chim non anh bắt về chăm sóc chỉ còn lại 7 con, anh đưa vào lồng treo trước quán cà phê và tập cho chim hót.

Ngoài kinh doanh chim, vợ chồng anh Nam bắt đầu mở rộng kinh doanh nhiều mặt hàng ăn theo, như bán thức ăn nuôi chim, bán lồng, mở cà phê chim và thành lập cả hội chơi chim. Thậm chí, anh còn ấp ủ ý định dịch vụ chăm sóc chim để mở đường kinh doanh kiếm tiền...


Một góc chợ chim ở Đà Thành

Nhiều người dân vùng đất quê nghèo Quảng Nam cũng nắm bắt được nhu cầu chơi chim của các đại gia Đà Thành. Vợ chồng anh Lê Phú Lâm, ở Tam Kỳ bỏ nghề bán hàng tạp hóa chuyển sang chơi chim và kinh doanh chim hơn 10 năm nay - như lời anh nói, là sống chết  với chim.

Anh Lâm cho hay toàn bộ vốn liếng hơn 600 triệu đồng sau khi sang hàng tạp hóa, bán thêm lô đất ở khu dân cư, vợ chồng anh lao vào chơi chim và kinh doanh chim. "Cái nghề ni cũng lạ anh à. Vừa được chơi, lại vừa có tiền, mà nhàn nhã, không phải lao tâm khổ tứ, được gặp anh em bạn bè hàn huyên, sướng lắm!".

Nhưng cái nghề chơi chim cũng lắm công phu, cũng hỉ nộ ái ố, cũng nước mắt và nụ cười. Cũng có lúc tim như ngừng đập vì... chim.

Nước mắt đại gia vì... chim

Chị Lê Thị Quyên, chủ hàng chim trên vỉa hè phố Nguyễn Hữu Thọ, kể trong nước mắt. Chị bảo mấy năm trước cả nhà 7 miệng ăn sống nhờ vào 4 sào ruộng lúa nước và nghề bán chim cũng tạm đủ ăn, nếu không muốn nói là khá giả.

Nhưng mấy tháng nay, chồng chị trong một lần leo lên cây cao ở vùng rừng Nam Giang lấy ổ chim sáo, không may trượt chân té xuống đất bị chấn thương nằm một chỗ.Để có cái ăn, chị phải đi mua lại chim của mấy anh hàng xóm chở ra Đà Nẵng bán kiếm lời để nuôi con và lo thuốc thang cho chồng.


Một quán cà phê chim, kiêm kinh doanh chim rừng tại Tiên Phước đang bán chim cho khách.
Mỗi năm lợi nhuận từ chim chủ quán cà phê này thu lợi hơn 100 triệu đồng.


Chị nói rằng trước khi chồng gặp nạn, nhờ nghề bắt chim và bán chim nơi vỉa hè Đà Thành cuộc sống của hai vợ chồng khấm khá. Nhưng bây giờ tất cả số tiền dành dụm từ nghề buôn chim mấy trăm triệu đồng đều đội nón ra đi vì tai nạn của chồng.

Thành "Râu", một đại gia chim Đà thành - than thở, nghề buôn bán chim và chơi chim cũng đong đầy nước mắt. Giàu lên nhờ chim, nhưng cũng nghèo đi cũng vì chim mà chẳng mấy ai lường hết được. Ngay cả Thành "Râu" cũng bao phen trắng tay vì chim. Đó là bận năm 2009, rồi đến năm 2011, Thành "Râu" dốc toàn bộ vốn liếng hàng tỷ đồng mở trại chim với ý định làm ăn lớn. Những chiếc lồng khủng có giá hàng chục triệu đồng được Thành "râu" đặt đóng cùng lúc có thể nuôi nhốt hàng trăm con chim đủ các loại.

Đùng một cái, dịch cúm gia cầm ào ạt tấn công các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế và chẳng bao lâu tràn vào Đà Nẵng. Chiến dịch tiêu hủy gia cầm để ngăn chặn dịch cúm được chính quyền địa phương triển khai đồng bộ. Hàng trăm con chim của Thành "Râu" cũng nằm trong danh sách cần phải tiêu hủy bắt buộc. Thế là trắng tay - Thành "Râu" kể như khóc.

Sau bận cúm gia cầm, nhiều đại gia chim như Thành "Râu", Chiến "Chích chòe" cùng nhiêu đại gia chim khác nơi chốn Đà Thành này lâm vào cảnh trắng tay. Nhưng rồi cúm gia cầm cũng qua, các đại gia chim bắt đầu gầy dựng trở lại và không dám đầu tư trại chim như Thành "Râu" mà chuyển sang kinh doanh chim một cách thận trọng hơn.

Cũng nhờ những năm gần đây người dân Đà Thành có thú chơi chim, nên cơ hội làm ăn trở lại của những đại gia chim như Thành "Râu" cũng đang bắt đầu hanh thông.

Chiến lược kinh doanh chim của các đại gia cũng được lên "kịch bản" và lộ trình mà như lời kể của Chiến "Chích chòe" là phải liên doanh, liên kết để cung cấp chim cho những người mê chim và hình thành những dịch vụ cho... chim một cách liên hoàn, bài bản.

Cụ thể, các đại gia và người thân đầu tư mở các quán cà phê chim, rồi cung cấp dịch vụ như bán thức ăn cho chim, lồng chim và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho chim. Ngay cả phương án dự phòng cũng được tính đến như khi dịch cúm xuất hiện trở lại cần phải đưa chim quí đi trốn dịch như thế nào cũng đã được tính đến.

Chỉ riêng cung cấp thức ăn và chăm sóc cho chim cũng đã làm các đại gia đau đầu. Chiến "Chích chòe" kể: "Việc đầu tiên là phải tìm sách về chim để đọc. Đồng thời phải đi 'tầm sư học đạo' các nhà 'chim học' mới có đủ kiến thức để chăm những chú chim có giá "khủng" từ 20 triệu đến hàng trăm triệu đồng. Nếu không có kiến thức về chim và không chịu khó học hỏi thì chỉ cần những lúc trái gió trở trời, hay chỉ cho chim ăn một loại thức ăn công nghiệp có sẵn thì chỉ một đêm đến sáng là hàng trăm triệu đồng mất trắng vì chim chết".

Chiến "Chích chòe" vỗ vai tôi: "Nếu có máu chơi chim và kinh doanh chim thì hãy nhập hội. Anh bảo đảm nếu làm ăn hanh thông và biết tính toán mỗi năm kiếm cũng được tiền tỷ... ". Tôi không dám tin, nhưng nhìn cung cách và phong thái nhàn nhã, cùng các phương tiện đắt tiền như xe hơi, điện thoại cũng như cách tiêu tiền, rồi giao dịch mua bán giá trị hàng chục, hàng trăm triệu đồng mỗi con chim quý... , thì với những người máu kinh doanh không thử sức cũng là lạ.


Xem tiếp


Các thế cây cảnh


(Sẻ Xanh) - Thế quần thụ tam sơn
Là ba cây kiểng nằm chung trong một chậu to. Còn gọi là tam tài, ba cây kiểng trực thọ đứng gần ngay hàng, cây cao chính giữa, hai cây thấp hơn ở hai bên, nhưng có thể so le một tý, cây to có 5 tàn, hai cây lùn chỉ cần ba tàn, có thể giao cành với nhau làm thế nào ba cây cân đối mới đẹp và ba cây cũng liên kết với nhau, nếu thiếu một trong ba cây là mất hết vẻ đẹp. 




Thế lưỡng long tranh châuThế lưỡng long tranh châu
Thế này phải uốn với song thọ trồng chung vào một chậu, uốn đối xứng thành hai con rồng uốn khúc, giao đầu tranh hạt minh châu nằm ở giữa, là thế kiểng cổ thường thấy uốn với hai cây mai chiếu thủy hay cần thăng kim quýt, ngày nay thường uốn với cùm nụm rô nhanh chóng hơn với nòng bằng kẽm, trồng cây lên tới đâu, gài vô tới đó vài ba năm là thành, thân hai con rồng uốn khúc, đấu đầu lại nhìn quả châu, các nhánh làm chân và mây, đuôi ngẩng lên xòe ra như múa rất đẹp.




Thế long đàn phượng vũThế long đàn phượng vũ
Thế này bay bướm hơn, có nghĩa là chim phượng hòang múa trên mình rồng. Đây là thế có thể uốn với một cây, hoặc hai cây trồng chung một chậu. Phải cây cổ thụ gốc to, uốn nằm trên miệng chậu, gốc ngẩng lên làm đầu rồng. 






Thế long bàn hổ phụcThế long bàn hổ phục
Thế này cũng có thể uốn với một cây kiểng to có hai thân hoặc với hai cây trồng chung một chậu.Thế long bàn hổ phục có nghiã là rồng nằm uốn khúc và hổ cũng nằm sát đất chịu khuất phục để chầu chủ nhân. 






Thế long mã hồi đầuThế long mã hồi đầu
Thế này gồm hai cây to riêng biệt hay cùng gốc, nhưng một cây cao một cây thấp, rễ xòe ra theo chân thú, cây thấp thân to, ngắn nằm ngang, ngọn làm đầu ngẩng lên, không tàn nhánh, tạo dáng con ngựa nằm quay đầu trở lên. Cây cao uốn thân long, cong cong văn vẹo, phân chi theo lối tứ diện, xòe ra bốn phía làm chân và mây, ngọn uốn tàn to như bông sen rồi bẻ cúp xuống làm đầu rồng quay trở lại. 




Thế song thụThế song thụ
Bây giờ đến thế có hai cây trồng chung trong một chậu. Thế song thụ còn có thể song xiêu, hai cây to cao như huynh đệ, nhưng đều bị gió xô đổ ngã về một bên, hoặc một cây ngã bên này, một cây ngã về bên kia, theo chiều đối nghịch nhau để giữ thăng bằng, cành nhánh đều phân theo lối chi tiết, ngọn vươn thẳng lên và hồi đầu. 





Thế phụ tử giao chiThế phụ tử giao chi
Thế này y như thế phụ tử, nhưng phần nhánh cuả hai cha con có thêm phần quấn quýt, ôm lấy nhau, mặc dù cha con, nhưng yêu thương trìu mến y như tình yêu thương dịu dàng cuả mẹ con. Thế này câu tử có thể to cao hơn và có một nhánh quyện lấy cây phụ nên gọi phụ tử giao chi.Các thế khác như huynh đệ, tỷ muội, đồng khoa...





Thế phụ tửThế phụ tử
Thế này cũng y như thế mẫu tử, nhưng cây phụ, nhưng cây cha phải to cao và đứng thẳng hơn cây mẫu, tạo vóc dáng cuả người cha, ít dịu dàng hơn, cứng rắn hơn, nhưng không phải là không che chở cho con, thể hiện đúng tình cảm cha con,cây tử nhỏ hơn cây phụ nhiều, cũng ba tàn, quấn quýt lấy cây phụ, lúc nào cũng nhờ sự bao bọc cuả người cha. 





Thế long giángThế long giáng
Thế này dễ uốn hơn thế long thăng, hình dáng điệu bộ ngược lại với thế long thăng là được. Đầu chúi xuống, ngực nằm trên mặt chậu, cành nhánh làm mây bao lấy chân uốn khúc trong tư thế đáp xuống, đuôi mềm dẻo, làm bánh lái điều khiển êm ái nhẹ nhàng một cách tự nhiên. Tuy nhiên không kém phần oai phong lẫm liệt, vì rồng là con vật trong bộ tứ linh, rất dũng mãnh. 





Thế long thăngThế long thăng
Thế này có hai cách uốn, tùy theo ý cuả nghệ nhân, tùy theo đánh cây+ Cách thứ nhất: Uốn đầu rồng ở trên ngọn cây. Cách này hợp lý vì rồng bay lên thì đầu phải ở trên, nhưng rất khó uốn, làm sao ngọn cây nhỏ hơn gốc cây mà uốn đầu nằm trên ngọn cho đạt.


Xem tiếp


Kỹ thuật nuôi chim khướu


(Sẻ Xanh) - Cách đây vài năm, chim Khướu được rất nhiều người yêu chuộng và nuôi dưỡng. Bởi bản năng siêng hót, mau dạn người, hót được nhiều giọng và giọng hót vang xa nên có rất nhiều người cao tuổi thích nuôi. Nhưng hiện nay, chơi chim không phải là một sở thích dành cho người già, chơi chim đã đi sâu vào giới trẻ. 

Trước kia, chỉ cần đứng ở bìa rừng, treo lồng bẫy và chim mồi lên, ngồi chơi khoảng 1 phút là có 1 em Khướu mắc bẫy, nhưng ngày nay thì các tay săn chim phải đi sâu vào trong rừng, phải tìm đến nơi có nhiều khe, suối để tìm Khướu. Đó là lý do giải thích vì sao hiện nay mua chim bổi Khướu khó như mua chim Giồng (Nhồng). Chúng ta phải làm gì để giá chim không cao như hiện nay, chim không bị khan hiếm, chúng ta vẫn có thể tìm và bẫy nhiều loại chim ở bìa rừng, liệu chim Khướu có nằm trong "Sách Đỏ" trong những năm gần đây không...? Có lẽ đã có rất nhiều câu hỏi kiểu như vậy thường luẩn quẩn trong đầu của những người chơi chim. 


Nhìn chung, Khướu được chia làm 3 loại về màu sắc:

Khướu ô: Lông đen từ đầu đến chân.
Khướu bạc má: Lông đen hoặc đen xanh, nhưng hai bên má có màu trắng.
Khướu ô lờ: Lông đen, bên má có màu trắng nhạt, pha giữa ô và bạc má.

Dân chơi chim thường thích nuôi Khướu bạc má hơn, tại hai bên má trắng. Còn Khướu ô thì nhiều người quan niệm là xui, tại toàn thân phủ một màu đen giống Quạ, thỉnh thoảng lại phát ra tiếng kêu giống mèo nữa, vào đêm khuya mà hót như vậy thì có mà... mất ngủ. Nhưng theo kinh nghiệm của các "trưởng lão" thì Khướu ô hót được nhiều giọng và hay hơn Khướu bạc má, sức chịu đựng của Khướu ô lại dẻo dai, bền. Vì thế chim "mồi" thường được các tay săn chọn là Khướu ô, và các tay bẫy chim Khướu thường nói câu "Mồi ô vô bạc má", tức là nếu mồi là Khướu ô thì bẫy thường vào chim Khướu bạc má, mang về bán nhiều tiền hơn, ai mà... chẳng thích?

Khướu được chia làm 2 loại về mục đích chơi:

*Khướu hót: nuôi để nghe hót, thư giãn đầu óc, làm cho tinh thần được sảng khoái, giảm căng thẳng trong công việc và đời sống.

*Khướu đá: nuôi dùng để chọi, có thể chọi để thư giãn hoặc vài két bia uống cho vui.

Nếu người mới tập nuôi Khướu thì khó mà phân biệt được con nào là Khướu đá, con nào là Khướu hót. Có người từng mua một con khướu, nhưng nuôi mãi thì thấy nó nhát và ít hót, hay phồng má khi nghe người khác hót trêu, họ nghĩ con Khướu này có vấn đề, nuôi tốn bột mà không hót thì trả tự do cho nó có khi tốt hơn. Thế là họ "phóng sanh", sau này đi ra ngoài, nghe người ta trò chuyện, biết rõ hơn về Khướu đá, khi đó mới thấy "tiếc", vì những điểm quan trọng của Khướu đá nó đều có cả, nhưng mà lỡ thả rồi, bắt lại bằng cách nào đây?



Chọn Khướu:
Khướu đá: chọn những con dáng người to, chân trụ vững, ngón ngắn, móng vừa phải, vảy nổi lên, lông to bản và không ôm sát thân, mỏ ngắn nhưng to và chắc, lông đuôi ngắn, có một chỏm lông ở quanh mỏ dài và màu đen đậm, đặc biệt đám lông màu đen ở dưới cổ phải lớn. Đặc biệt nếu chú ý kỹ sẽ thấy đám lông ở hai má thường hay phồng và phình to hơn. Mỗi khi nghe tiếng chim khác hót hoặc bạn bắt chuwowcsa giọng chim hót thì nó không hót lại mà thường phát ra âm thanh nghe như "khẹc, khẹc..." để tỏ thái độ khó chịu của nó, kết hợp với tiếng kêu này là nó thường hay phồng má, chân nhảy liên hồi.

Khướu hót: nếu khướu chuyên hót thì nhìn dáng người thanh mảnh hơn, lông mỏng, mỏ dài, chân thon, ngón dài, lông ôm sát thân, lông cánh bó dát thân sau, lông đuôi dài, khi nghe chim khác hót thì ít nhảy hơn, mỗi khi hót trả lời lại thường thì đuôi hơi vẫy nhẹ.

Nhìn chung thì người ta thương lẫn lộn giữa khướu hót và khướu mái, vì dáng người hơi giống nhau, nhưng nếu ai nhìn kỹ thì sẽ thấy những điểm khác nhau rõ rệt về đầu, lông ở quanh mỏ, râu và đám lông đen ở phía dưới cổ, chim trống thường thì lông đen, đậm, đầu to hơn, nói chung là có vẻ oai vệ hơn, và chim mái chân thường ngắn hơn chim trống.



Thức Ăn Và Nước Uống:

Khướu là một loài chim ăn tạp, nó "xơi" tất cả mọi thức ăn, lại tò mò, thích khám phá, lại dễ nuôi.

Thức ăn của Khướu trước kia thì thường là bột ngô xay nhỏ ( 4 - 6 lon sữa bò), tép khô (1 - 2 lon), bột dinh dưỡng của baby ( 1 gói), trứng gà (2 - 3 quả)

Cách làm: bột ngô chiếm phần lớn, đảo đều ở trên chảo, cho lửa nhỏ, đảo đều tay, nên chia làm nhiều lần để tránh trường hợp bột ngô bị cháy do đảo không đều, khi ngửi thấy thơm thì đổ ra ở một tờ giấy báo. Tép cho vào chảo, cho nhỏ lửa, sao vàng, đến khi nào cầm một con tép, bóp nhẹ mà thấy giòn, vợ vụn là ổn, giã nát (giã nát vừa chứ không phải giã mịn đâu nha), đổ vào đống bột ngô. Bột dinh dưỡng không cần sao vàng, cho vào đống bột ngô kia, đảo đều tất cả. Tiếp tục cho trứng gà vào, trộn đều tay, bóp vợ vụn những viên bột, tiếp tục mang vào sấy hoặc đảo đều trên một chảo lớn, nhớ cho nhỏ lửa thôi nha! Sau đó cho vào lọ, cho chim ăn dần.

Nếu ai kinh tế khá hơn thì có thể bổ sung vào đó cào cào khô, hoặc tăng thêm lượng chất tanh cho Khướu!

Có một số người mua bột Ba Vì hay bột khác dạng viên cho Khướu ăn, như vậy cũng được, nhưng nên xay nhỏ, vì nếu để như vậy thì Khướu thường gắp viên bột thả vào nước (cho mềm) rồi mới ăn, như vậy làm cho nước mau bẩn, và mau bốc mùi. Xay nhỏ giúp chim ăn tai chỗ, không thể gắp thức ăn bỏ vào nước.

Khướu ăn trái cây nhưng ít hơn so với những loại chim khác, thỉnh thoảng nó mới ăn, nhưng chỉ một ít thôi. Nước uống thì nên cho uống nước đun sôi đã để nguội, vì thời gian ban đầu đưa chim về, nguồn nước lạ, thay đổi hoàn cảnh sống nên nó thường đi phân trắng hoặc phân xanh, nhưng đừng tỏ thái độ lo lắng, khi nào ổn định thì nó sẽ trở nên bình thường lại thôi! Có nhiều người nghĩ do thức ăn nên thay đổi thức ăn liên tục, làm như vậy thì Khướu mau xuống sức, nên để vậy để chim ăn và thích nghi dần. Nhớ một điều quan trọng là cho Khướu uống nước đun sôi đã để nguội nha!

Khướu thích ăn cào cào, có người còn cho ăn con thằn lằn, nhưng có người lại nói cho ăn thằn lằn làm cho Khướu bị xơ lông, lông không bóng và mượt. Với HCN thì cho ăn cào cào là ổn, thỉnh thoảng kiếm vài em dế hay "tiên tiến" (con này nhìn giống con dế) cho Khướu ăn cũng ổn.

Lồng Khướu:
Lồng thì có nhiều loại, có thể là lồng vuông, lồng tròn, lồng sắt, lồng mái vòm... nhưng nhìn chung thì Khướu được nuôi nhiều ở lồng vuông, bởi vì lồng vuông có thể áp sát tường treo trong nhà, tiện cho chim mỗi khi sang lồng, không gian có vẻ rộng hơn. Một số nuôi ở lồng tròn, nói chung là tùy theo sở thích, túi tiền của từng người.

Lồng nên chọn lồng có nan khít với lỗ khoan, không có những mảnh gỗ hay mây tua ra hai bên, bề mặt lồng nhẵn, vết đinh đóng khít, vừa, ban lồng không bị gãy, nan mảnh nhưng chắc chắn... Lồng nên được quét qua khoảng 2 - 3 lớp sơn mài hoặc Véc ni, vì như vậy lồng mới giữ được màu và khó bị lên mốc, không bị thấ nước. Bạn có thể tham khảo về lồng chim ở các bài viết khác, vì ở đó bày vẽ chi tiết hơn!

Cầu ( nèo) cho Khướu: Nên chọn những cái cầu to hơn ngón tay cái, tốt nhất là bạn nên tự tay tìm lấy và làm, vì những cái cầu tiện bằng gỗ bán ở các quầy nó không bền, thường mau nổi mốc, chất lượng lại không tốt. Nên kiếm một cành cây có bỏ bọc lớn, lõi chắc, hơi cong. Dùng cưa cưa lấy một đoạn nào bạn cảm thấy đẹp và thích hợp cho Khướu đậu, cưa bằng kích thước của lồng, cưa một đầu cầu một đường thẳng nhỏ sao cho vừa lọt cái nan lồng, đặt cầu sao cho cầu ở chính giữa lồng, nếu lồng có số nan lẻ thì đặt cầu sao cho số nan ở ngoài cửa nhiều hơn số nan ở phía sau (đối với lồng vuông).

Treo máng thức ăn và nước uống vào lồng cho chim, chứa thức ăn nên mua cái có hình dạng cái lu, bằng thủy tinh, loại lớn, nên mua khoảng 3 cái, 1 cái chứa nước, 1 cái chứa thức ăn, 1 cái dùng để thả cào cào vào cho ăn.

Đón Khướu Về Nhà

Nhiều nơi thì thường dùng một cái túi giấy, bấm vài lỗ, cho chim vào và mang về. Kiểu này hơi phiêu lưu vì lỡ đưỡng xa, chim sợ nên đi phân lỏng, gặp bao bằng giấy ==> chim chỉ cần vùng mạnh là bao rách. Vì thế nên mượn luôn lồng của họ về (đặt cọc khoảng 50 - 100k, sau này mang lồng lại trả thì lấy lại tiền), hoặc mua luôn lồng tại đó, nhớ là phủ ngoài một mảnh vải hoặc một cái áo thun để tránh gió và giúp chim đỡ sợ.

Khi Khướu về đến nhà, nên treo lồng hoặc áp lồng ở sát tường, đừng quên dùng phấn diệt kiến kẻ một đường trên tường bao lấy lồng nha. Áp lồng nơi nào ít người qua lại, có thể dùng giấy bào hoặc áo phút khoảng 1/2 lồng ở 2 ngày đầu để giúp chim trấn tĩnh.Nếu là Khướu hót thì qua ngày thứ hai là nó bắt đầu xổ giọng., khi đó có thể tháo lớp phủ lồng ra, vẫn để lồng chim ở yên đó, không nên di chuyển ra vườn, để chim thích nghi và dạn người hơn. Khoảng 4 - 7 ngày thì thả 1 - 2 con cào cào cho chim, sau khi thả vào lồng thì nên lùi lại xa. Ở những ngày sau, nên thả lần lượt từng con, khi chim ăn hết con này mới nhẹ nhàng đến gàn và thả con khác vào, hành động nhẹ nhàng, từ tốn kẻo chim sợ. Khoảng 2 tuần sau là chim sẽ dạn người hơn, khi này có thể mang chim ra vườn hoặc treo lồng trước nhà, gần cửa ra vào. Buổi tối không nên cho chim phơi sương. Tập cho chim dậy sớm, khi mặt trời chưa ló lên, ánh sáng mờ mờ, có thể nhìn thấy là bạn nên đánh thức chim bằng cách nhẹ nhàng đưa lồng chim treo ở ngoài vườn hay treo trước nha. Có thể ban đầu chim hơi sợ nhưng làm như vậy khoảng 3 - 5 lần là chim sẽ quen thôi. Khướu thích dậy sớm để hít thở không khí trong lành, sau đó nó sẽ hót do bản năng, bạn có thể lắng nghe và tập hót nhái lại giọng của nó. Làm như vậy thường xuyên thì chim sẽ quen với bạn thôi.



Tắm Và Vệ Sinh Cho Khướu

Khướu thích tắm, vì thế Khướu thường sống ở những nơi mát, như gần khe, suối. Mang chim về nhà khoảng 2 tuần, khi chim đã dạn người hơn thì bắt đầu tập cho Khướu tắm, sang chim qua lồng tắm, cẩn thận kẻo chim bay đó nha! Đưa hai lồng lại đến gần nhau, kẻo cửa lồng lên, đứng lùi lại ra xa phía sau lồng có chim ấy, khi đó Khướu sợ sẽ tìm đường nhảy sang lồng tắm. Khi Khướu đã qua lồng tắm thfi nhẹ nhàng đến gần, đóng cửa lòng lại. Dùng nước tưới nhẹ hoặc vẩy nhẹ nước cho ướt lông Khướu, phía dưới lồng có một chậu chứa nước. Nhớ là vẩy nhẹ, lông ướt ít là ổn, chứ vẩy nhiều là chim nhát đó! Sau đó lùi lại phía sau, nên để lồng tắm ở nơi có nắng nhẹ, khi đó sẽ kích thích chim tắm hơn. Bạn ngồi ở gần đó, vừa xem chim vừa tranh thủ vệ sinh lồng kia, thay bột và nước. Ban đầu chim sẽ không dám nhảy xuống nước tắm, nhưng ánh nắng nhẹ sẽ kích thích nó, làm cho nó thấy khó chịu và ngứa ngáy, thế là nhảy vào tắm. Khướu thích tắm nên có thể loại bỏ được lũ rận chí. Khi nào chim hay nhảy bám vào thành lồng chứ không đứng yên, không rũ lông là Khướu tắm đủ, khi đó bạn nên mang lồng đến và sang chim qua lồng, cách sang cũng tương tự, đứng về phía lồng tắm, bắt đầu kéo cửa, khi chim đã qua thì đóng cửa lại, mang chim ra cho chơi nắng nhẹ, khi đó chim sẽ rũ lông, rỉa cánh nhằm lại hết bụi bẩn bám ở người.

Khi thấy chim hay rỉa lông, hay dùng chân gãi thì khi đó % là chim bị rận chí, có thể trị bằng cách tắm cho chim, pha vào nước một ít nuối ăn, cho chim tắm bình thường. Làm như vậy vài lần sẽ khỏi.

Buổi sáng, khi mang chim ra, sau khi nghe chim hót. Khi mặt trời lên thì có thể mang chim ra tắm nắng. Chim rất thích tắm nắng vào buổi sáng sớm, khoảng 3 - 5 phút là có thể mang vào, treo lồng ở trên cao. Có thể cho chim ăn cào cào theo chế đô sáng 2 con, chiều 2 con.

Kinh nghiệm của một số người muốn chim mau dạn thì tập cho chim quen ăn cào cào, cho ăn suốt 1 tuần liền, sau đó 3 ngày tiếp theo nhịn, không cho chim ăn, khi đó chim sẽ thấy thiếu cào cào. Ngày thứ 4 bạn cầm 1 em cào cào trên tay, đưa nhẹ đến bên lồng, khi này nó "say" cào cào nên % là nó sẽ nhảy đến mổ vào em cào cào và ăn ngon lành.Làm như vậy nhiều lần thì chim sẽ dạn.









Xem tiếp


Chim khướu


(Sẻ Xanh) - Khướu (Timaliidae) họ chim, thuộc bộ Sẻ (Passeriformes) gồm các loài chim rất đa dạng, có cỡ trung bình, một số loài khướu cỡ nhỏ. Bộ lông khướu mềm, dày, xốp, thường có màu xỉn, cánh tròn, chân khỏe và cao, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và trên các cành cây, có tiếng hót vang và hay.

Phần lớn khướu sống thành đàn nhỏ, trong các tầng cây bụi hay dưới tán rừng, chủ yếu sống định cư.

Tổ hình chén hoặc tổ có mái che. Phần lớn các loài khướu, con trống và con mái có bộ lông và vóc dáng giống nhau.


I. Các loài khướu:

Trên thế giới có 254 loài khướu. Việt Nam có 95 loài, được xếp vào loài đặc hữu Việt Nam, phân bố ở các tỉnh miền Trung Việt Nam (như Quảng Bình, Quảng Trị), nam Trung bộ và đặc biệt ở Lâm Đồng. Khướu mun (tên khoa học là Garrulax chinensis lugens) được nuôi làm cảnh từ những năm 1994-1995 nhưng là vì chim rừng, nên khó nuôi. Chim khướu chọn nuôi đá nhau là chim khướu bạc má (có tên khoa học là Garrulax chinensis), khác với khướu đầu trắng (Garrulax lexcholophus).

Ở vùng Kỳ Anh (Hà Tĩnh), A Lưới núi Bạch Mã (Thừa Thiên-Huế) có loài khướu gọi là khướu mỏ dài, tên khoa học là Jabouilleia danjoui, đây là loài chim đặc hữu quý của Việt Nam vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị thẩm mỹ. Chim khướu này khi trưởng thành có mỏ dài, không cong, đuôi ngắn, bộ lông nâu hung vàng. Cằm, họng và giữa bụng trắng nhạt, sống định cư ở rừng độ cao 1000m.

Ngoài ra, còn có 2 loài chim khướu có giá trị nữa trong 95 loài khướu ở Việt Nam là khướu mỏ dẹt đuôi ngắn và khướu xám.


Khướu mỏ dẹt đuôi ngắn: Tên khoa học là Paradoxomus davidianus tonkinensis, cũng là họ Timaliidae, bộ sẻ Passeriformes. Chim này có đầu hung nâu tươi, đuôi nâu thẫm, cánh viền màu hung tươi, mắt hung nâu, chân xám hồng. Chúng sống ở các bụi tre nứa trên các vùng đồi có độ cao 600-1000m, có rất nhiều ở Bắc Cạn.

Khướu xám: Tên khoa học là Garrulax maesi, đây là loài chim khi trưởng thành, phần lông trước mắt dưới mắt, má và cằm cùng dãy lông mày có màu đen nhạt. Hai bên đầu có vệt trắng rộng chạy từ phía sau mắt đến cổ; tai xám nhạt; bụng và ngực phớt nâu. Mắt nâu hoặc đỏ. Chân xám đen.

Khước xám sống ở rừng rậm thường xanh nguyên sinh, thứ sinh và rừng khai thác. Người ta gặp chúng ở khu vực Lài Cao, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc… ở độ cao 1600m. Đây là loại chim hiếm, quý.

Trên thế giới, lòai chim khướu tập trung thành từng nhóm nhỏ, sống trong đám rừng tre hoặc trong những bụi cây rậm rạp. Tập trung ở miền nam Trung Quốc, phía tây tỉnh Vân Nam và khắp Đông Dương.

Khướu được nuôi và biết nhiều nhất là khướu bạc má Garrulax chinensis, khướu mun Garrulax chinensis lugens và khướu đầu trắng Garrulax lexcholophus. Khướu đầu trắng còn có tên gọi khác là bù chao, hoặc gọi đầy đủ là bù chao đầu bạc. Khướu đầu trắng hót không hay bằng hai con trước, nhưng bù lại chúng có thể bắt chước, nhại lại giọng húyt sáo của con người nên nuôi chúng rất vui cửa vui nhà.

Tại Việt Nam, chim khướu có mặt khắp nơi từ bắc miền Nam đến sát biên giới phía Bắc Việt Nam. Rất hiếm gặp tại tuyến rừng Bù Đăng – Bù Đốp đổ ra. Khướu có giọng hót rất lớn, rền và vang xa, đồng thời cũng có thể bắt chước được một số giọng hót đa dạng khác nên chúng cũng được gọi là khướu bách thanh.

Màu sắc của chúng tùy theo từng địa phương:

-Khướu đen tòan thân có màu đen, sống các vùng ven thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. trở ra.
-Từ Quảng Trị, Quảng Bình trở ra, khướu có màu xám tro.
-Miền Trung, khướu có màu xám xanh đậm.
-Khu vực Đèo Chuối (Bảo Lộc) có màu xám xanh.
-Từ Bù Na trở ra, khướu có màu lông vàng nâu.

Khướu mun: Tòan thân có màu xám đen, màu tối nhưng nhìn sạch sẽ vì bộ lông óng mượt. Trên đầu lớt phớt vài cọng lông trắng, dưới hầu đen mun, chân đen, mỏ đen, ức cũng có vệt màu đen lan xuống lồng ngực. Chú ý con khướu đen nào có vệt đen nào càng dài càng quí.

Khướu bạc má: tòan thân có màu hung hung đỏ, hai bên má có đốm trắng bằng móng tay. Là lọai khướu có giọng hót hay và đa dạng nhất, thông minh nhất trong các lọai chim khướu. Từ “khướu bách thanh” là dùng chỉ khướu bạc má. Khướu bạc má có thể bắt chước rất nhiều giọng, giọng hót dài, đa âm đa sắc. Đặc biệt là khướu bạc má sống tại vùng Blao và Lâm Đồng.

Khướu rất nhát người, thấy người đến gần lồng là nhảy tứ tung, dễ gãy đuôi, tróc trán. Nên phải cần có áo lồng và đặt vào nơi yên tĩnh. Khi quen dần mới từ từ tháo áo lồng.

Khướu mới mang về rất nhát và rất yếu vì mất nhiều nước. Lúc này ta nên pha sữa đút cho chim uống từ từ (chim sặc là chết ngay). Sau đó để vào nơi yên tĩnh cho chim mau lại sức. Chim trống chú ý vùng lông bao phủ hậu môn, lông có màu vàng khét.

Khướu lớn con (dài từ 20 – 24 cm) và hay nhảy tung lồng nên nuôi vào lồng tre/mây có đường kính 40 cm (lọai 72 nan) cao chừng 60 – 80 cm. Cầu lớn bằng ngón tay để cho khướu có thể đứng trên đó vững vàng.
Chim khướu uống rất nhiều nước. Thiếu nước, chim há hốc mỏ để thở và sẽ chết ít lâu sau đó. Vì vậy cần chú ý cung cấp nước đầy đủ cho chim. Nuôi khướu cần phải vệ sinh lồng và năng tắm nước thường xuyên. Khi tắm nước cần phải sưởi ấm cho chim ngay.

Thức ăn cho chim cũng dễ kiếm, ít tốn kém. Chỉ cho chúng ăn chuối trộn với cám Ba Vì, hoặc hỗn hợp gạo trộn trứng. Có thể dùng bột đậu phụng (lạc rang) trộn chung với lòng đỏ trứng vịt cho chim mau căng, hót hay. Chim càng căng lửa sẽ càng hót hay, cung cấp thêm gián đất, dế, cào cào, thằn lằn hoặc thịt bò xé nhỏ để chim tăng thêm sức đề kháng.

Nhân tiện, xin trích nguyên văn cách thuần dưỡng chim khướu trích từ nguồn cuocsongviet.com. Bài viết dưới đây:

“ Muốn thuần hóa chim khướu có hiệu quả, theo các nghệ nhân Nguyễn Phúc Liêm, Thừa Nhân Đạo, Lê Trương và một số nghệ nhân Lê Văn Thành, Nhất An… phải hết sức tốn công và kiên nhẫn.

Chim non tại ổ chưa đủ lông đủ cánh (chưa ra ràng) chúng chưa đủ trí khôn để nhận ra mồi, chưa bay được thường chỉ là nhờ vào ba mẹ đút mớm.

Người ta làm cho chúng một nhân tạo mô phổng theo tổ thật của chúng trên rừng, giử không khí ấm nhưng thoáng. Cách một giờ đút mồi một lần vì chúng tiêu hóa thức ăn nhanh để mau lớn. Khi đói, thấy người, chúng há mỏ ra chờ… Còn khi no, dù có cạy mỏ vẫn không hé. Chừng 6 tuần tuổi chúng biết bay nhảy. Độ 2 tháng , chúng tập hót, ban đầu là đơn âm, không đa âm trầm bổng. Chúng ta có thể thả như nuôi gà vịt, tối chúng biết vào lồng ngủ.

Chim trưởng thành khó nuôi hơn. Chúng bay nhảy tứ tung để thoát thân nên dễ bị bể đầu sứt móng, có con vài hôm lăn ra chết. Vì vậy, để hạn chế phản ứng, ta nuôi trong lồng được phủ kín có để sẵn nước, sâu, chuối chín. Lồng chim phải treo nơi thanh vắng… đở cho chim hỏang hốt. Vài ba hôm, hạ lồng xuống thay thức ăn rồi treo lên chỗ cũ..áo phủ lồng hé dần cho chim quen với bên ngoài. Thường thì mất 4 tháng chim mới quen, nửa năm chim mới thuần thục.

Khi thuần thục rồi, chim hót rất hay và giữ được ”giọng rừng”, khác với chim khướu non ta nuôi từ bé giọng hót không điêu luyện. Vì vậy, nghệ nhân thích thuần dưỡng chim khướu bổi hơn.

Người nuôi chim thường khó tính, mua, họ, chọn mỏ, mắt, lông, chân, ngón, móng… phải hòan chỉnh, còn có chút ”tì vết” dù hót có hay ta cũng….thả, không tiếc vì ít giá trị.

Cuối cùng, các nghệ nhân nuôi chim cho biết: Chim hót rất ưa tắm, vài ba ngày phải cho tắm một lần, mỗi lần 15 phút. Khi tắm phải sang lồng chim khác cho chim, phải giữ lồng cho sạch sẽ, nghĩa là vệ sinh cho chim.”

Chim khướu thường đẻ vào mùa hè, tức là từ tháng 4 đến tháng 6. Ổ thường được làm trên các cây cao trên lưng chừng núi. Mỗi ổ chứa khỏang 3 – 5 quả trứng. Chim ấp 15 ngày trứng nở. Chim non sau 45 ngày có thể tự kiếm ăn. Đến 4 – 5 tháng tuổi, chim thay lông trưởng thành. Lúc này chim non bắt đầu tập hót, giọng sẽ từ từ lớn dần.

 Chú ý:

-Khướu có mỏ hở hoặc mỏ kênh sẽ hót được rất nhiều giọng.
-Khướu có đuôi tròn khi nhảy thường xòe đuôi. Khi chim thuần, chim “hót hay múa đẹp” dễ dàng.
-Chim trống chú ý vùng lông bao phủ hậu môn, lông có màu vàng khét.


Xem tiếp


Cây cảnh 10 tỷ - 100 tuổi


(Sẻ Xanh) - Không thuộc dạng “đỉnh nhất” nhưng nhắc đến tốp những cây cảnh đẹp và đắt nhất Việt Nam, không một tay chơi cây cảnh nào ở Hà Nội dám bỏ qua cây sanh trên 100 năm tuổi của ông Nguyễn Gia Hiền, (Triều Khúc, Hà Nội).

Đã có người trả đến 10 tỷ đồng nhưng ông không bán. Cây sanh đã trải qua 4 đời người được gia chủ chăm sóc như một con người, nhà có tang cây cũng được quệt vôi chịu tang. Vì vậy khi chuyển bán cho ai không hẳn chỉ là tiền nong mà phải có “duyên” mới “gả bán”.
 
Ông Nguyễn Gia Hiền bên cây sanh có tuổi thọ 4 đời của mình.
 
Trong Festival cây cảnh nghệ thuật tổ chức ở TP Hồ Chí Minh năm 2006, đây là cây cảnh duy nhất đạt giải Vàng. Và cũng trong Festival này, một đại gia khét tiếng ở Sài Thành dám bỏ ra 400.000 USD (gần 6 tỷ Việt Nam đồng) để mua cây sanh này cùng với cây đa búp đỏ đạt giải Đồng của ông Vũ Văn Châu (cũng ở Triều Khúc, Hà Nội) nhưng cả hai ông đều không bán. Những “kỷ lục” hiếm thấy này đã khiến tôi phải tò mò tìm về tận nơi để được “tận mục sở thị”.
 
Cây có tuổi thọ 4 đời người
 
Trước khi quyết định đi đến nhà ông Nguyễn Gia Hiền để tìm hiểu về cây sanh có nhiều “kỷ lục” này, tôi được một số bậc đàn anh ghé tai mách nhỏ: “Chú nên đến gặp ông Nguyễn Huy Hiền – Chủ tịch câu lạc bộ cây cảnh làng Triều Khúc và nhờ ông ấy dẫn đi. Ông Nguyễn Gia Hiền không phải là người khó tính nhưng lại là người rất thận trọng, từng từ chối rất nhiều phóng viên của một số tờ báo đến tìm hiểu viết bài...”. Theo đúng lời dặn tôi tìm về nhà ông Huy Hiền và thật may được ông giúp đỡ rất nhiệt tình.
 
Sau tiếng gọi cửa, đón chúng tôi là một người đàn ông mắt đeo kính, trạc tầm 50 tuổi, dáng người mực thước, mặc áo ba lỗ trắng, quần đùi, trên tay đang cầm ô doa tưới cây ra đón. Ông Huy Hiền giới thiệu với tôi đây chính là ông Gia Hiền – chủ nhân của cây sanh quý mà tôi đang muốn gặp. Sau màn chào hỏi làm quen, khi liếc qua hàng chục chậu cây cảnh đang được xếp ngay ngắn trước sân nhà, tôi đã không khỏi bị “mê hoặc”. Thú thực, dù là một kẻ ngoại đạo hết sức “khù khờ” về cây cảnh nhưng khi nhìn những chậu cây cảnh ở đây tôi đã không thể rời nổi mắt khỏi chúng. Thấy vậy, ông Huy Hiền gợi ý đứng luôn ở ngoài sân để nói chuyện cho tiện bề quan sát.
 
Dẫn tôi lại ngay một cây sanh được đặt trang trọng ngay chính giữa trung tâm của sân nhà, trong một chiếc bể rộng, chứa đầy nước, ông Gia Hiền giới thiệu: “Đây chính là cây cảnh mà cậu đang muốn được tận mục sở thị. Nó là bảo vật gia truyền 4 đời của dòng họ Nguyễn chúng tôi và cũng là cây chủ của khu vườn có hơn 50 chậu cây cảnh này...”.
 
Cây được trồng trên một tảng đá cổ, rễ quặp sâu vào tảng đá. Toàn bộ cây được đặt trong một bể chứa bằng xi măng hình chữ nhật có chứa nước sạch.
 
Ông Gia Hiền kể, Triều Khúc là một làng có truyền thống chơi cây cảnh lâu đời. Nhà nào cũng chơi và chơi từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tuy nhiên, riêng với người Triều Khúc, dù trong nhà có hàng trăm, hàng nghìn chậu cảnh thì bao giờ cũng phải có một cây làm cây chủ. Cây chủ thể hiện phong cách của người chơi, thể hiện gia phong, nề nếp theo triết lý Nho giáo của gia đình.
 
Cây chủ thường phải được đặt ở vị trí trung tâm và trang trọng nhất của khu vườn. Đó cũng là lý do ông chọn cây sanh quý này làm cây chủ của vườn cảnh nhà ông.
 
Về nguồn gốc của cây sanh quý hiếm này, ông Gia Hiền cho biết: “Lúc sinh thời ông cụ thân sinh ra tôi có kể lại rằng đây là cây sanh do một người bạn thân tặng cho ông nội tôi. Ông nội tôi mất đi để lại cho bố tôi. Đến năm bố tôi 80 tuổi, tức là cách nay 20 năm, vì đã quá già yếu nên tôi xin phép cụ được chăm sóc cây và lúc đó tôi mới được chính thức sở hữu cây sanh này. Ông cụ tôi nếu còn thì nay vừa tròn 100 tuổi mà cây này lại có từ đời ông nội tôi, vậy tính sơ sơ tuổi đời của cây cũng 100 tuổi có lẻ, còn tính theo đời thì đến đời con trai tôi hiện nay là cây đã qua 4 đời chính chủ...”.
 
Chăm cây như nuôi con
 
Mời chúng tôi lên ngồi trước thềm nhà nơi có chiếc chiếu hoa đã trải sẵn và ấm trà vừa mới pha, ông Gia Hiền kể tiếp câu chuyện về cây sanh quý.
 
“Lúc được ông cụ giao cho quyền sở hữu cây sanh quý này tôi mới 30 tuổi. Tôi phải nói ngon nói ngọt với cụ bao nhiêu lần để xin cụ cải tạo lại thế cũ của cây, cụ mới chịu đồng ý, bởi đó là thế cổ mà ông nội và bố tôi phải mất bao nhiêu thời gian, công sức mới tạo được. Khi thấy tôi cắt trụi hết cành, lá của cây thì người trong nhà ai cũng kêu, bảo tôi là phá hoại cây gia bảo. Phải mất 15 năm sau tôi mới được minh oan khi cây đoạt giải Vàng toàn quốc trong Festival sinh vật cảnh 2006 tại TPHồ Chí Minh...”.
 
Cây sanh này có thế Phu thê (thế chồng vợ) – thế cây này thể hiện cho một gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
 
Theo nhận định của giới chơi cây cảnh nghệ thuật Hà Nội thì cây sanh của ông Gia Hiền có thế Phu thê (thế chồng vợ) – thế cây này thể hiện cho một gia đình hòa thuận, hạnh phúc, đây là một thế cây rất khó tạo dáng. Cây có tới hai thân, hai ngọn nhưng phân chia rõ ràng thân lớn, thân bé, tán trên tán dưới thể hiện cho một cặp vợ chồng. Thân lớn tượng trưng cho người chồng, là trụ cột chính trong gia đình nên nó phải mang dáng dấp mạnh mẽ, to lớn. Còn thân bé tượng trưng cho vợ, là nữ nên uốn lượn mềm mại và thấp hơn tán chồng. Xung quanh hai thân này mọc ra 9 cành tương ứng với 9 tán nhỏ khác nhau nhưng không có tán nào đè chồng lên nhau. 9 tán nhỏ theo quan niệm của người chơi là biểu trưng của 9 người con. Cây được trồng trên một tảng đá cổ, rễ quặp sâu vào tảng đá. Toàn bộ cây được đặt trong một bể chứa bằng xi măng hình chữ nhật có chứa nước sạch. Nước ở đây được thay thường xuyên, vì như thế cây mới giữ được thế, không phát triển quá nhanh.
 
Theo ông Gia Hiền, khó nhất trong việc tạo nên thế mới của cây sanh quý là tạo dáng mới nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn cốt của cây. Tuyệt đối cấm kỵ không được để lộ những nhát cắt do con người tác động. Dáng dấp đấy là do con người tạo nên nhưng nhìn vào người ta vẫn nghĩ là nó phát triển tự nhiên, đó là một điều khó trong chơi cây cảnh nghệ thuật mà không phải ai cũng làm được. Cây quý ở chỗ là nó mang dáng dấp cổ kính và có biểu hiện của năm tháng cũng như thể hiện được cốt cách của con người.
 
“Tại sao năm 2006, người ta mua cây này với giá gần 3 tỷ đồng mà ông không bán?” – tôi hỏi. Ông Gia Hiền nhấp một ngụm trà rồi ôn tồn giải thích: “Không phải là chúng tôi chê tiền đâu. Thời điểm đó, 3 tỷ đồng là một số tiền không nhỏ. Nhưng các anh có chơi cây cảnh mới biết. Chúng tôi xem cây như bạn, ngày đêm quấn quýt bên cây và lấy cây làm lẽ sống. Nhà có tang thì cây cũng chịu tang. Tôi không biết ở những nơi khác thế nào, còn ở Triều Khúc, nhà có tang thường phải dùng vôi quệt vào mỗi thân cây như để cây cùng chịu tang cùng chủ nếu không cây sẽ chết. Bất kỳ cây nào quên quệt vôi là y như rằng hôm sau cây sẽ chết. Bởi thế chúng tôi không muốn vì tiền mà bất chấp mọi thứ để giao cho một người không biết gì về cây cảnh, như thế có tội lắm...”. Tuy nhiên khi chúng tôi hỏi về mức giá được trả gần đây thì ông Hiền không nói.
 
Chỉ đến khi tìm hiểu từ một “tay chơi” cây cảnh khá có tiếng ở Hà Nội, là bạn thân của ông Gia Hiền thì mới biết, từ năm 2006 trở lại nay, sau khi nghe tiếng đã có rất nhiều đại gia đến chiêm ngưỡng và trả giá lên tới 6 tỷ, 8 tỷ, thậm chí mới đây có người trả lên đến gần 10 tỷ đồng nhưng ông Hiền vẫn không chịu bán. Lý do duy nhất được ông Hiền chia sẻ với bạn: vì đây là vật gia bảo nên không thể tùy tiện trao gả, gặp duyên dù giá rẻ hơn ông vẫn vui lòng nhượng lại.
 
Hà Tùng Long


Xem tiếp


Chim cu gáy


(Sẻ Xanh) -  Chim cu gáy tên khoa học: Streptopelia senegalensis, Streptopélia Chinensis
Tên tiếng Anh: Laughing Dove, Spotted Dove


Chim cu cườm (Spotted Dove)

Chim Cu Gáy, còn gọi là chim Cu là loại chim thường gặp nhất ở vùng thôn quê yên tĩnh. Từ Bắc chí Nam, ở đâu có đồng ruộng là ở đó có Cu gáy sinh sống. Chúng cần dựa vào người mà sống, vì thức ăn của Cu Gáy chủ yếu là lúa, đậu, mè, là những nông sản do nông dân làm ra.

Cu Gáy có hai loại :
- Cu Cườm, còn gọi là Cu Đất, có cườm ở cổ.
- Cu Ngói, thân hình nhỏ hơn Cu Cườm, toàn thân lông màu hung đỏ, cổ không cườm mà thay vào đó là một vạch đen quanh cổ.

Đúng ra phải kể thêm một loại Cu nữa là Cu Xanh, còn gọi là Cu rừng, vì chúng chỉ sống ở rừng. Cu Xanh thì toàn thân lông màu xanh lá cây, thân hình cũng lớn bằng Cu Gáy.

Thường thì những người thích nuôi Cu Gáy là những người già, những lão nông. Họ treo một vài lồng chim nhỏ ở trước hiên nhà để thỉnh thoảng nghe được vài câu “Cúc cu cu…” và lấy làm đắc ý.

Người chưa hề nuôi chim Cu, chưa hiểu rõ đặc tính của chim Cu ra sao, thì thường hay thắc mắc không hiểu loại chim này có gì đáng hấp dẫn đến độ có người mê nuôi chúng đến như thế.
Người ta thường kể cho nhau nghe những chuyện khó tin nhưng lại là chuyện có thật : nhưng có những người thương con Cu gáy đến độ nhà cháy không lo “chạy” đồ đạc đắt giá trong nhà mà chỉ vội vàng xách chiếc lồng Cu vì sợ chết con chim quí hóa. Có người chạy giặc mặc cho vợ con tay xách nách mang đồ đạc, còn mình thì chỉ khư khư giữ chiếc lồng chim Cu.

Như vậy thì loại chim tưởng là tầm thường này chắc hẳn cũng có những ưu điểm bất thường mà người đời chưa hiểu rõ nên cho là tầm thường chăng?

Hình dáng : Chim Cu Gáy hình dáng như một chú bồ câu sẻ, cổ có cườm bao hết vòng giáp cổ thì gọi là cườm liên hoàn. Cườm liên hoàn thì vô cùng quí hiếm, vài trăm con mới có được một con. Lông chim có màu xám hồng ở phần đầu, ức và bụng. Phần gián cánh lông màu đen, và trên cánh có những vệt đen nhỏ tạo thành những đốm vảy qui trên cánh.

Nhưng với một chim Cu thuộc vào loại tốt nhất mà người sành điệu lựa nuôi thì phải có những điểm đặc biệt sau:

- Nhất Huỳnh kiên: Tức là chim có cườm màu vàng. Cườm này phải xuống tận vai nhưng không đóng ở trên lưng. Dĩ nhiên loại chim này hiếm khi được gặp.

- Nhì Liên giáp: Tức là hình dáng của chim giống như một cái bắp chuối, hai đầu nhỏ, giữa phình ra, trông rắn chắc, gọn chặt.

- Tam Quá khóe: Có cái chỉ màu đen chạy dưới khóe mắt, dài quá khóe mắt một chút mới tốt.

- Tứ Chân khô: Có nghĩa là chân chim phải vuông cạnh và khô. Vảy đóng hai hàng trơn, đóng chặt, nổi mốc lên.

- Ngũ Liên hoàn: Cườm phải đóng giáp vòng hết cổ mới thật tốt. Thường thì chim chỉ có cườm đóng ở phần trên cổ mà thôi, phần ức không có cườm.

- Lục Cườm rựng: Tức là có cườm lót. Chim mà có cườm rựng là chim có gù hậu, tức là gáy dai dẳng.

Tất cả những con chim Cu nào có một trong những đặc điểm trên đây đều thuộc loại chim quí hiếm, dùng làm Cu mồi rất tốt.

Ngoài ra, cũng phải lưu ý tới những chi tiết quan trọng sau đây:

- Chim Cu mà đuôi vót, tức là ở bắp đuôi thì lót, chót đuôi thì nhỏ lại mới là con chim tốt và khôn.

- Chim có gián cánh, tức là có lông trắng ở trên một cánh hay ở cả hai cánh. Đó là chim tốt nên chọn nuôi.

-Chim có móng trắng gọi là Bạch Đề : chỉ cần có một móng trắng hay nhiều móng trắng là chim quí hiếm.

-Chim có màu đỏ là chim sát thủ : tức là chim rất dữ, chọn làm mồi thì chỉ toàn gặp may.
Ngoài ra, ta còn phải chọn chim có đầu nhỏ, có mỏ cong, có hình bầu, có cổ lãi (cổ cao), có chân thấp, có đuôi thon, có cánh phủ mình hay cánh chéo, lông phủ đầu gối…

Xem thế đủ thấy chọn một con chim Cu Gáy thật hay cũng khó khăn như chọn một gà nòi đá độ. Chọn gà nòi người ta cũng chọn đầu, cổ, lưng, lườn, ghim, chân, vảy, móng, đến cánh gà, đuôi lao… À thì ra đây là giống để đá. Con chim Cu gọi là hay là con chim dùng để làm cu mồi. Giống Cu mồi thì hung hăng ham đá, vì vậy mấy con khác mới thi nhau sa vào bẫy rập của người gác Cu.

Giọng gáy của chim Cu : Người không rành về chim Cu thì cứ tưởng rằng giống chim này chỉ có một giọng buồn tẻ là lúc nào cũng gáy : Cúc cu cu mà thôi. Chính vì hiểu sơ sài như vậy nên người ta mới băn khoăn tự hỏi tại sao lại có người chịu khó nuôi chim Cu cho uổng công tốn lúa như vậy. Chẳng lẽ trên đời này không có chim nào hót hay hơn để chọn nuôi hay sao?

Sự thực thì Cu Gáy có nhiều giọng, mà chỉ có người rành rẽ về chim Cu mới biết rành rẽ mà thôi.

Trước hết, ta thấy chim Cu có cả thảy 5 giọng là giọng trơn, giọng một, giọng hai, giọng ba, giọng cà lăm.

-Giọng trơn : Cúc cu cu (mỗi lần gáy chỉ thốt lên 3 tiếng đơn giản cụt ngủn)
- Giọng một : Cúc cu cu…cu (có thêm một tiếng cu hậu ở đằng sau nghe hay hơn)
- Giọng hai : Cúc cu cu… cu cu (có thêm hai tiếng cu hậu ở đằng sau nghe càng hay hơn)
- Giọng ba : Cúc cu cu… cu cu cu (có thêm ba tiếng cu hậu ở đằng sau nghe càng hay hơn nữa. Ở đâu mà có con Cu rừng hót hay như thế này thì dù có xa xôi đến mấy người gác Cu cũng mò đến bắt cho bằng được, vì đây là chim quí khó tìm).

-Giọng cà lăm : Con chim này gáy giọng lúc thế này lúc thế khác, tiếng nọ xọ tiếng kia nghe không ra làm sao cả. Cũng như cách nói chuyện của người bị bệnh cà lăm vậy, chim này chỉ có đem thịt mà thôi.

Nghe giọng chim Cu gáy xong ta còn phải tìm hiểu xem cái âm của nó hay dở ra sao nữa. Đây là một việc cực kỳ khó khăn mà chỉ những người lão luyện trong nghề mới phân tích được kỹ càng, dù là tai họ chỉ mới nghe phớt qua. Còn người mới vào nghề thì chắc chắn không tài nào hiểu nổi.

Giọng chim Cu gáy có 4 âm chính : âm thổ, âm đồng, âm son, âm kim.
-Âm thổ : chim gáy có âm thổ thì giọng trầm. Loại chim này được đánh giá là loại chim khôn nhất. Trong âm thổ có 4 âm sau đây :
1.Thổ đồng : âm trầm mà ngân vang như tiếng chiêng cồng.
2.Thổ bầu: âm trầm mà ồm ta lên
3.Thổ sấm : âm trầm mà rền như tiếng sấm
4.Thổ dế : âm trầm mà rỉ rả nỉ non như tiếng dế
-Âm đồng : chim gáy có âm đồng thì tiếng ngân vang. Âm đồng cũng có nhiều loại như sau :
1.Đồng pha thổ : âm ngân vang nhưng lại trầm trầm
2.Đồng pha son : âm càng lúc càng ngân vang
3.Đồng pha kim : âm càng lúc càng nhỏ nhưng vẫn vang xa
-Âm son : chim gáy có âm son có người gọi là âm chuông vì giọng chim ngân vang như tiếng chuông rền, nghe có vẻ hùng tráng oai vệ. Âm son cũng có nhiều loại như :
1.Son pha đồng : âm to mà rền vang như tiếng sấm
2.Son pha kim : âm khởi đầu rền vang như tiếng chuông ngân sau cứ nhỏ dần…
-Âm kim : chim gáy có âm kim thì tiếng nhỏ và vang xa. Âm kim cũng có nhiều loại như :
1.Kim pha son
2.Kim pha thổ
3.Kim pha đồng

Điều đó đủ cho ta thấy muốn phân tích một giọng chim Cu thật chính xác không phải là chuyện dễ dàng. Ai hiểu thấu đáo được điều này chắc chắn người đó sẽ gặp nhiều điều thú vị khi lắng tai nghe chim đang gáy. Đến đây, chắc chắn chúng ta không còn ngạc nhiên nhiều khi biết tại sao người ta lại có thể say mê nuôi một con chim có bề ngoài không sắc sảo này đến thế. Đến đây, chúng ta có thể cảm thông được về sự mê luyến cao độ của người nuôi chim đối với con chim quí hiếm của mình. Vì rằng, chọn được một con chim mồi vừa ý có những đặc điểm ưu việt kể trên đâu phải là chuyện dễ. Đôi khi trăm con, hoặc ngàn con mới có một. Chắc gì trong một đời người có thể chọn cho mình được một hoặc hai con mà nuôi ? Do đó, giá trị con Cu mồi tốt nhất cũng độ nửa lượng vàng nhưng người ta vì quá quí trọng nó đến nỗi có người dù nghèo nhưng ai mua với giá nào cũng không bán, thề “sống nuôi chết khôn”, đôi khi còn dám đem thân mình bảo vệ con chim.

Mặt khác, chim càng quí người ta lại càng cố giữ gìn cẩn thận. Vì như chúng ta đã biết, con Cu gáy dù nuôi liên tục đến mười năm, người mến chim nhưng chim lại chẳng mến người, hễ sút ra khỏi lồng là cắm đầu bay thẳng không hề ngoảnh đầu ngó lại.

Hễ sẩy là mất. Vì vậy, có người tiếc hùi hụi con chim quí đến bỏ ăn bỏ ngủ, đau ốm liệt giường. Có người phải bỏ ra hàng mấy tháng trời lặn lội đi tìm con chim từ rừng này sang rú khác, từ làng nọ qua làng kia, bắt lại được mới thỏa lòng.

Cách phân biệt chim trống mái:
Giống Cu gáy có điểm lạ là trống, mái gần như giống nhau, khó phân biệt được. Giống từ hình dáng đến cườm và cả giọng hót nữa. Người nào lão luyện trong nghề lắm cũng chỉ đoán được đến 50% là cùng.

Thường thường thì chim mái có cặp mắt mơ buồn hơn chim trống, đầu chim mái nhỏ hơn, và hai cái “ghim” ở hai bên hậu môn nở hơn (điều này rõ nhất ở mái già đã đẻ nhiều lứa).
Con chim Cu mái trong thời rụng trứng (tức là khoảng đầu mùa mưa) sắp đẻ thì hung hăng ghê lắm, lúc nào cũng gù, cũng gáy. Hễ nghe tiếng chim lạ gáy ở đâu là liền bay tới cho bằng được, dù đó là chim trống hay chim mái nó cũng đá. Vì vậy, đi bẫy chim trong những tháng đầu mùa mưa người ta bẫy được chim mái rất nhiều.

Chính vì không phân biệt được trống mái một cách rõ ràng, dứt khoát nên nhiều người cắc củm nuôi con chim đến một vài mùa lông (một mùa đổ lông là một năm) mới biết được đó là con mái thì… không còn nỗi nản chí nào bằng.

Thú nhử chim Cu: Nhử chim Cu hay gác Cu là một thú vui nhất của người nuôi Cu Gáy. Người ta nuôi Cu là để bẫy Cu. Bẫy Cu không ai nhằm vào mối lợi về kinh tế mà là cố tìm cho mình một con chim quí về nuôi. Vì như ai cũng biết, giá một con chim bổi đâu có bao nhiêu tiền. Bắt được chim bổi tồi thì chỉ đem về rôti hoặc bằm nhỏ vò viên nấu cháu bồi dưỡng sức lực bù vào những ngày gian khổ lặn lội trong bưng, trong rẫy, đến nỗi quên ăn mất ngủ, mặc cho muỗi đốt, đỉa bu mà không dám cục cựa.



Ở đời có bốn cái ngu:

Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.

Ta hãy phân tích xem tại sao ông bà ta lại cho việc “làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu” lại là bốn cái ngu?

-Làm mai tức là bỏ công ra mai mối cho hai anh chị nên vợ chồng. Đó là việc ai cũng thấy nên làm, nhưng thường thì hậu quả mang lại không hay ho gì cho mình cả. Người ta ăn ở với nhau hạnh phúc chưa chắc gì người ta đã nhớ ơn mình, nhưng khi người ta lục đục gây gổ nhau là vợ chồng lôi mình ra trách cứ nọ kia. Họ đổ tội cho mình thay mặt ông tơ mà se lộn mối chỉ hồng nên ngày nay vợ chồng mới bị lâm cảnh “Cơm không lành canh không ngọt”.

-Lãnh nợ tức là đứng ra bảo lãnh vay nợ cho người khác. Việc này thì ai vay người ấy hưởng, chứ mình không “xơ múi” gì. Thế nhưng, nếu việc trả nợ không “êm chèo mát mái” nghĩa là tới hẹn trả nợ mà chưa thanh toán được hoặc không có khả năng thanh toán thì người chủ nợ cứ túm áo mình mà đòi. Lãnh nợ... ơn đâu không thấy, chỉ thấy mình ngu dại “ách giữa đàng quàng vào cổ” mà thôi !

-Gác Cu hay bẫy Cu đâu phải là chuyện dễ dàng. Ai đi gác Cu cũng muốn tìm cho mình những con Cu hay, mà Cu hay là giống Cu khôn ở trong rừng, trong rú, trong rẫy, trong nương có khi ở cách xa nhà năm ba chục cây số là thường. Đã thế lại không tiện đường xe cộ, ghe thuyền nên nhiều khi người gác Cu phải xắn quần áo lặn lội qua mương qua rạch để đến nơi treo lục, đặt bẫy. Chuyện té lên té xuống, rách áo xước da cũng là chuyện thường tình. Đến nơi, treo lục xong là tìm một nơi kín đáo ngồi rình với tất cả sự hồi hộp đến nơi muốn ho cũng không dám, kiến cắn cũng không dám gãi vì sợ động. Mà nào kết quả được gì ? Con Cu khôn ít khi vướng bẫy, mà còn Cu dại thì đáng giá mấy đồng ! Đã đi gác Cu thì ai cũng biết đến điều đó, nhưng vì sự đam mê của nghề nghiệp nên người ta lúc nào cũng hăm hở khăn gói lên đường. Người ngoài cuộc cho đó là cái dại kể cũng phải !

- Đến việc cầm chầu thì quả thật… là ngu ! Người được mời cầm chầu là người có chức vị lớn trong làng cũng có nghĩa là người có kiến thức nhất nhì trong làng. Cầm chầu là một vinh dự lớn lao chứ không phải ai muốn làm cũng được. Nhiệm vụ của người cầm chầu là khi xem diễn tuồng đến câu hát nào hay (có ý nghĩa) hoặc đoạn nào diễn viên diễn qua xuất sắc thì đánh một hay hai ba tiếng trống để tán thưởng. Nếu thấy hay quá thì có thể giáng luôn một hồi. Thế nhưng điều mình cho là hay mà người khác cho là dở thì sao đây ? Mà trên sân khấu, chắc gì diễn viên đã bằng lòng với tiếng trống khen thưởng hay chê bai của mình ? Xin nói thêm nếu hát dở thì người cầm chầu sẽ đánh đùi trống vào thành trống bằng một hay hai tiếng cắc. Thùng là khen, cắc là chê. Như vậy người cầm chầu chỉ là một vinh dự hão, đâu có ăn được gì mà để cho người ta chê bai mình ? Đó không phải là một cái ngu sao?

Đấy, trong bốn cái ngu đó có cái ngu gác Cu. Kể ra cũng mỉa mai thật. Nhưng thôi, ta hãy gác chuyện đó sang một bên, ngu hay khôn là do cái nhìn của mỗi người. Bây giò chúng ta đi thẳng vào sự chuyên môn của nghề gác Cu. Muốn đi gác Cu thì người ta phải có Cu mồi và đồ nghề mới đi bẫy được.

-Cu mồi : Cu mồi tốt nhất là chim sát thủ hay ít ra cũng là con chim gáy thật hay có gù hậu. Khi treo lục lên cây hoặc đặt bẫy rập hay cái úp dưới đất, con Cu mồi phải gù tiền, tức gáy thúc để chim ngoài tức mà vào bẫy. Khi Cu rừng đến gần bẫy, Cu mồi phải biết gù hậu để thúc giục con bổi vào tròng, như vậy mới là chim mồi hay. Còn nếu chỉ biết gù tiền, mà chim rừng lại gần lại lơ láo đứng nhìn, không biết gù hậu thì làm sao bẫy được con mồi?

Con chim sát thủ là con chim dữ lúc nào cũng háu đá, giọng gáy tiền cũng như hậu đều có vẻ thách thức muốn đấm đá. Loại chim dữ này thường có nhiều ở miền Trung và vùng Tây Ninh. Người ta chọn những con có cườm rựng, cườm liên hoàn. Những chim có màu lông :

- Xám trắng : còn gọi là bạch tuyết, chim này rất dữ đi đánh được cả bốn mùa trong năm.

- Chim đen : gọi là đen chứ nó không phải đen mà lông chỉ sậm hơn chim thường một chút. Loại này nuôi khó nổi, tức là khó thuần dưỡng, nuôi lâu gáy, nhưng khi đã nổi rồi thì rất dữ.
Trong tay đã có một con Cu mồi dữ rồi thì việc gác Cu đã khá dễ dàng.

Cũng xin được trình bày thêm, là người ta dùng Cu Cườm để làm mồi không dùng Cu Ngói làm mồi. Nếu có dùng Cu Ngói làm mồi thì chỉ để bắt Cu Ngói mà thôi, Cu Cườm không đấu đá với Cu Ngói.

Cu mồi là Cu Cườm không những bắt được Cu Cườm rừng mà còn bắt luôn cả Cu Ngói và tất nhiên cũng không ai dùng cu mái làm mồi cả.

Đã có Cu mồi rồi bây giờ phải sắm đồ nghề. Đồ nghề thì có lục treo, lục chạy, cái úp và bẫy rập. Dĩ nhiên, mỗi thứ có một cách bẫy riêng, bẫy khác nhau và còn tùy theo hoàn cảnh mà dùng từng loại cho thích hợp.

- Lục treo : là cái bẫy rập, ở trên có cái móc để máng vào nhánh cây. Chim ngoài từ nhánh chuyền vào là bị lưới rập rập xuống, loại này thường dùng ở miền Trung.

- Lục chạy : ở trong Nam thường dùng. Lục chạy được gác trên các chạng ba cây, bên dưới lục móc sẵn cây sào dài để giữ thăng bằng cho bẫy.

- Cái úp : là một cái vòm bằng lưới, bên trong nhốt con Cu mồi và rải lúa để dụ chim rừng sà xuống ăn. Giống chim trời khi bay ngang hễ thấy có Cu lạ (tức là Cu mồi) dưới đất là sà xuống, vì biết nơi đó có thức ăn. Con chim tham mồi nên mới vướng giò.

- Dò : là một loại bẫy đơn sơ, chỉ là một đòn tre ngắn như chiếc đũa vót rất mảnh, một đầu cắm xuống đấtm đầu kia làm một cái thòng lọng bằng sợi chỉ nhỏ mà bền. Chim rừng sà xuống ăn mồi bị vướng cổ hay vướng phải chân lúc nào không hay biết, chừng biết ra thì đã muộn màng. Dò còn là một loại bẫy cũng làm bằng một que tre nhỏ, mỗi một đầu cắm xuống đất còn đầu kia trét nhựa dính, chim say mồi đâu biết nguy hiểm để tránh, dính vào que nhựa thì biến thành… xâu chả thơm lừng cho người.

-Đánh rập : là dùng hai tấp lưới dài lợp banh ra hai bên, ở giữa thì rải lúa và gài vài con chim mồi. Cu rừng thấy thức ăn nước uống bày sẵn thì sà xuống cả bầy, người đánh bẫy lừa thế giật dây cho hai tấm lưới úp lại là bắt được tất cả.

Đánh chim theo cách thức nào cũng gây sự hồi hộp, hứng thú cho người đánh bẫy. Công việc này đôi khi cũng gây cho mình nhiều điều phiền phức như phải mất công rình mò, chợ đợi…thế nhưng lại là cái thú vị tuyệt vời, một sự sướng thỏa mà không phải ai cũng có dịp hưởng được.
Tuy nhiên, cái úp và lưới rập chỉ để bắt Cu thịt chứ không phải cách để bắt Cu quí về nuôi. Muốn bắt được Cu hay thì phải đánh bằng lục treo hay lục chạy, vì ta đã có dịp biết trước con chim bổi là loại hay dở thế nào rồi.

Thức ăn của chim Cu Gáy : Ca dao ta có câu :”Cu Cu ăn đậu ăn mè, Bồ Câu ăn lúa, Chích Chòe ăn sâu”.

Đây là câu hát mà ông bà ta xưa nhắc nhở cho nhau biết, ai trồng đậu trồng mè thì ráng mà canh giữ chim Cu sà xuống phá hại. Sự thực thì ngoài đậu, mè ra thì chim Cu Gáy còn ăn cả lúa nữa. Đúng ra, lúa là thức ăn chính của loại chim này.

Nhà nghèo nuôi chim Cu thì người ta chỉ cho ăn lúa như kiểu nuôi gà mà chim vẫn sống, vẫn sung, vẫn siêng gáy.

Nhà giàu thì ngoài lúa ra còn cho Cu Gáy ăn thêm đậu xanh, mè để tăng thêm chất bổ dưỡng. Người nào có khả năng hơn nữa thì cho chim ăn một thực đơn đặc biệt hơn. Đó là lúa tiêu, một loại lúa nhỏ hột, hột chắc mà tròn rồi thêm hột kê, mè đen, hột cải, đậu xanh. Chim ăn như vậy nhiều khi còn sướng hơn cả chủ!

Cách nuôi chim Cu bổi: Chim mới bẫy về gọi là chim bổi. Chim bổi thì rất nhát gặp người đến gần thì hốt hoảng bay tán loạn cả lên, cho nên chim bị bể đầu sứt trán, rụng lông từng chùm là chuyện thường tình. Vì vậy, nuôi Cu bổi ta cũng phải có phương pháp riêng để chim khỏi chết một cách đáng tiếc.

Chim mới bẫy về, đi đường đói khát, nên về nhà ta đút cho nó ăn vài ba hột bắp nhỏ hoặc năm bảy hột lúa và cho uống nước để chim “tỉnh hồn lại vía” đã. Đó là cách giúp chim tiếp tục sống để thuần dưỡng. Sau đó ta nhốt chim bổi chung chuồng với các chim bổi cũ (thường thì người đi gác chim có một cái lồng lớn để nhốt tất cả chim bổi cũ mới vào để thuần dưỡng cho tiện, và cũng để lựa dần những chim tốt ra nuôi, chim xấu làm thịt). Chim mới thấy chim cũ lại cóng ăn mồi, nó cũng bắt chước đến ăn. Ta cứ cho chim sống như vậy cho quen dần nếp sống tù túng để cho chim dạn dần.

Sau đó, lựa con chim nào tốt tướng, dữ dằn thì bắt ra nuôi riêng.

Trong trường hợp nhà không có chim bổi cũ, chỉ có một con bổi mới, thì việc trước tiên là ta cũng phải đút bắp lúa cho chim ăn để khỏi mất sức rồi mới nhốt vào lồng nhỏ. Người ra nuôi chi Cu gáy trong một loại lồng nhỏ đặc biệt bằng mây hay tre, hình dáng giống như trái bí rợ. Lồng tuy chật chội nhưng lại thích hợp với loài Cu Gáy vì Cu Gáy đứng đâu chỉ đứng yên một chỗ chứ không bay nhảy tứ tung như các loại chim khác. Do đó, nhốt chim trong lồng lớn lại không ích gì.

Nuôi Cú Gáy trong lồng nhỏ có điều lợi là chim bổi thì mau thuần, mà chim đã thuần thì mau sung. Nuôi chim mà lúc nào cũng sung cũng gáy, thử hỏi ai lại không thích?

Chim bổi bắt về, ta nhốt vào lồng, bên ngoài nên phủ áo lồng cho chim đỡ sợ, bên trong để cóng nước, cóng lúa, cóng khoáng hay đất cho chim ăn được vài ngày. Xong đâu đó, ta treo lồng vào chỗ yên tĩnh để chim bớt sợ hãi. Sau đó, cứ vài ba ngày, ta thăm lồng một lần, mỗi lần như vậy nhớ châm thêm nước và thức ăn cho vài ngày tới.

Công việc thuần dưỡng chim, ta cứ từ từ mà làm, muốn gấp gáp cũng không thể được. Vì chim bổi mau thuần hay không một phần là do ở mình, mà một phần cũng do ở chim. Có nhiều con chim dạn đến nỗi chỉ bắt về một vài hôm đã gáy trong lồng, tiếng gáy như chuông rền có vẻ thách thức chim khác. Nhưng cũng có nhiều con nuôi đến ba năm mà chưa… mở miệng ! Nuôi những con chim khó “nổi” này rất chán, tuy nhiên người nuôi vẫn hy vọng rằng hễ “có tật thì có tài”, những con chim như vậy khi đã nổi thì không chê vào đâu được.

Nuôi chim Cu muốn mau nổi, thường ta nuôi trong nhà vài ba con trở lên. Con treo nhà trước, con treo nhà sau, hoặc con treo trên lầu, con treo dưới lầu. Trong trường hợp nhà ở chật chội không đủ chỗ treo lồng, thì ta vẫn có thể treo gần nhau, nhưng những con xen kẽ ta phải trùm lồng kín mít để chúng chỉ nghe tiếng gáy mà không trông thấy nhau. Đôi khi, treo như vậy chim lại mau sung vì chúng cũng như loài gà, tức nhau vì tiếng gáy.

Thỉnh thoảng, người nuôi chi Cu Gáy cũng cho hai con “kè” nhau một chút cho chúng hăng lên. Chim khi đã sung thì lúc nào cũng năng nổ, hễ người nuôi búng tay là gáy, hoặc vừa nghe chim khác nổi một vài hậu là nó cũng tức khắc hăm hở trả lời, tỏ ra ta đây không chịu thua sút một ai!
Cũng xin được nhắc thêm, chim nuôi mãi trong lồng thì lông đuôi dài sẽ vướng víu. Vì vậy, chủ nuôi cứ vài tháng một lần, nhớ hớt bớt lông đuôi, lông cánh để chim xoay xở dễ dàng trong chiếc lồng vốn chật, khỏi gãy đuôi xơ cảnh, mất thẩm mỹ.

Săn sóc cho chim: Việc chăm sóc cho chim Cu không có gì khó khăn vất vả. Ta chỉ vệ sinh lồng cho sạch sẽ, cho ăn uống đầy đủ là được. Với con chim suy, mỗi tuần ta nên cho uống hai lần, mỗi lần một viên dầu cá. Và chỉ cần uống một tuần là đủ. Nếu muốn cho uống lại thì nên để đến tháng sau.

Nuôi chim Cu, thường ta thấy chúng bị hai thứ bệnh : đó là bệnh đau mắt và bệnh tiêu chảy.
Với bệnh đau mắt thì người chuyên môn có một lối trị riêng : người ta đâm vài trái ớt hiểm, môi vào hai đầu cánh và bôi ngay vào mắt chim, con chim xót mắt, cạ mắt vào đầu cánh gặp ớt lại xót thêm. Nhưng khi ớt hết cay thì chim lành mắt.

Riêng đối với bệnh tiêu chảy thì ta có thể dùng thuốc Terramycine loại dùng cho gà, pha vào nước cho chim uống vài ngày là khỏi.

Điều cần nhắc nhở thêm là trong lồng Cu Gáy bao giờ cũng phải có cóng khoáng chất. Loại chim này rất thích ăn khoáng, thiếu không được. Xin xem thêm bài nói về công thức chế biến khoáng chất ở phần cuối sách. Người ta thường lấy đá ong cà nhỏ thế khoáng cho chim ăn.
Tóm lại, chim Cu Gáy dễ nuôi, ít tốn kém lại ít công chăm sóc. Tiếng gáy của chim không réo rắt như Họa Mi, không véo von như Chích Chòe, nhưng cũng mang một sắc thái riêng, khiến người nghe quen tai ai cũng sinh ghiền.

Vào những buổi trưa tĩnh lặng, được nằm đong đưa trên một chiếc võng ở chái hè tại một vùng quê, hay một vùng ngoại ô nào đó, những tiến cúc cù cu… quen thuộc vọng vào tai, chắc chắn sẽ gây cho ta nỗi xao xuyến trong lòng. Những tiếng cúc cù cu… trầm lắng nhưng thân thương, mộc mạc nhưng đủ sức quyến rũ, đủ sức gợi nhớ trong ta những kỷ niệm mơ hồ êm đềm trong trí về một vùng quê hương thanh bình nào đó mà ta đã có dịp đi qua. Cúc cù cu…, tiếng gáy của con chim bình dị về thanh sắc như hình ảnh người dân quê thật thà chất phác, quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Con chim Cu tượng trưng cho hình ảnh quê hương thân thương mà ta không tài nào quên được.

Những ai đã từng nuôi chim Cu Gáy, chắc chắn là những người nặng lòng với mảnh đất quê hương. Một lần nằm nghe tiếng chim Cu là một lần khơi dậy trong họ những phút giây thắm đượm tình quê.


Xem tiếp


 

Khách ghé thăm

Flag Counter

Tìm kiếm trên sexanh.com

© 2010. Góp ý bài viết: comment trên trang Sẻ Xanh.com. Góp ý khác gửi mail cho Sẻ Xanh