 (SeXanh)  – Chùa Keo, còn gọi là Thần Quang tự, thờ thiền sư Không Lộ, tọa lạc  trên một mảnh đất rộng chừng năm mẫu (khoảng 2ha) thuộc làng Hành Thiện,  xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
(SeXanh)  – Chùa Keo, còn gọi là Thần Quang tự, thờ thiền sư Không Lộ, tọa lạc  trên một mảnh đất rộng chừng năm mẫu (khoảng 2ha) thuộc làng Hành Thiện,  xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
 
Thiền sư Dương Không Lộ là một vị cao tăng thời Lý, có công lớn trong  việc du nhập và hoằng dương Phật pháp vào Việt Nam nói chung và Nam  Định nói riêng. Do nhiều nguyên nhân, các nguồn tư liệu viết về thiền sư  Dương Không Lộ thật khan hiếm đã gây nên sự nhầm lẫn về tiểu sử và hành  trạng của Dương Không Lộ. Thiền sư không được chính sử ghi chép một  cách chính xác, cẩn thận giống như nhiều nhân vật lịch sử khác, kể cả Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử lược,  là hai bộ sử cổ nhất, cũng không ghi chép rõ ràng về thiền sư Không Lộ.  Tuy nhiên, không chỉ ở chùa Keo làng Hành Thiện, Nam Định và chùa Keo  làng Dũng Nhuệ, Thái Bình thờ Không Lộ mà hiện nay còn nhiều di tích  khác như chùa Am (Thái Bình), làng Đức Thắng (Bắc Giang), làng Ngũ Xá,  Mai Lâm (Hà Nội)… vẫn đang thờ ngài với tư cách thành hoàng (tổ nghề)  (1).
Cuốn Thiền uyển tập anh ngữ lục, bản in  tháng tư năm Vĩnh Thịnh thứ 11(1715) ghi: “Thiền sư Dương Không Lộ ở  chùa Nghiêm Quang, phủ Hải Thanh, mấy đời làm nghề câu cá, sau bỏ nghề  ấy mà đi tu, thường hay đọc kinh Già la ni môn. Trong các năm Chương  Thánh, Gia Khánh, đời Lý Thần Tông thường cùng đạo hữu ở ẩn đất Hà  Trạch, quên cả thân mình, ngoài không đi đến đâu, trong thì tu thiền  định. Bỗng thấy tâm thần tai mắt sáng sủa, có thể bay trên không, đi  trên băng giá, bắt được hổ phải phục, bắt được rồng phải giáng, vô cùng  quái đản người ta không sao lường biết được. Sau tìm về một ngôi chùa ở  quận nhà mà ở… Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh  thứ mười thì tịch, môn nhân thu xác táng ở cửa chùa, Vua hạ chiếu cho mở  rộng chùa này, quyên hai mươi hộ phụng hương hỏa”.
Trong cuốn Quốc sư bảo lục của tiến sĩ Đặng  Xuân Bảng ở làng Hành Thiện biên soạn vào cuối TK XIX có đoạn viết:  “Không Lộ họ Dương… quán ở Hải Thanh… Không Lộ sinh năm Bính Thìn, niên  hiệu Thuận Thiên thứ bảy (1016) đời Lý Thái Tổ… tịch năm Giáp Tuất, niên  hiệu Hội Phong thứ ba (1904) đời Lý Nhân Tông”.
Sách Lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều  Phú có chép: “Thiền sư Không Lộ chùa Nghiêm Quang, huyện Hải Thanh là  người họ Dương ở Hải Thanh, mấy đời làm nghề đánh cá, bỏ nghề ấy đi tu,  thường hay đọc kinh Già la ni môn… Sau tìm về một ngôi chùa ở quận nhà  mà ở… Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ mười  thì chết; môn nhân thu xác táng ở cửa chùa. Vua hạ chiếu cho sửa rộng  chùa này, quyên hai mươi hộ phụng hương hỏa” (2).
  
Ngoài ra, cuốn 
Không Lộ thiền sư ký ngữ lục  bằng chữ Hán, không rõ tác giả và viết từ thời nào, hiện đang lưu giữ  tại chùa Keo làng Dũng Nhuệ chép: “Vị thiền sư Không Lộ ở chùa Nghiêm  Quang tại Hải Thanh, là người Hải Thanh, họ Dương, húy là Minh Không  thiền sư, theo nghiệp nhà làm nghề chài lưới… Về sau sư bỏ nghề đi tu  theo phái Đà La Môn. Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ nhất (1059), sư cùng  bạn là Giác Hải ra ngoài nước. Lúc đầu sư theo học cư sĩ Bảo Tài Ngô Xá  rồi sau theo học thiền sư Thảo Đường và đắc đạo. Thiền sư Thảo Đường  truyền thụ cho giáo lý của phái Tuyết Đậu Minh Giác”.
 
Về tư liệu bia ký còn hai tấm bia có nhắc đến việc phụng thờ thiền  sư. Bia thứ nhất ở trước tòa Phụ Quốc ở chùa Keo làng Dũng Nhuệ hình  vuông, bốn mặt đều khắc niên hiệu Chính Hòa thứ mười (1689) ghi: “Chùa  này thờ ông Không Lộ rất linh thiêng, được vua nhà Lý cấp ruộng đất ngàn  mẫu”. Tấm bia thứ hai lưu giữ tại chùa La Vân có nhắc đến vị thiền sư  Dương Không Lộ được dựng vào năm Đức Long thứ năm (1633).
Về sau, thiền sư tìm về một ngôi chùa ở quê nhà trụ trì và truyền bá  giáo lý Phật giáo và tịch ngày 3-6 năm Nhâm Tuất (1094) đời vua Lý Nhân  Tông. Thiền sư Không Lộ được nhân dân thờ phụng với tư cách là sư tổ  sáng lập nên hai ngôi chùa nổi tiếng ở vùng châu thổ Bắc Bộ là chùa Keo  làng Hành Thiện (Nam Định) và chùa Keo làng Dũng Nhuệ (Thái Bình). Vùng  này còn lưu truyền sự tích thiền sư Không Lộ có công đánh giặc, diệt  thủy quái, là người dạy dân nghề đánh cá, trồng lúa, nghề đúc đồng, đan  lát. Thiền sư đã từng sang Trung Quốc quyên đồng về đúc tứ đại khí của  nước Đại Việt xưa, xây dựng chùa Keo và đúc chuông chùa Keo. ảnh hưởng  của thiền sư lan rộng khắp vùng châu thổ sông Hồng, không chỉ dân vùng  Sơn Nam hạ (Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) thờ ngài là tổ nghề, thành  hoàng làng mà dân làng Ngũ Xã (Gia Lâm, Hà Nội), Đức Thắng (Bắc Giang),  Ninh Giang (Hải Dương) hiện vẫn thờ phụng thiền sư với tư cách thành  hoàng, tổ nghề.
Chùa Keo, còn gọi là Thần Quang tự, thờ thiền sư Không Lộ, tọa lạc  trên một mảnh đất rộng chừng năm mẫu (khoảng 2ha) thuộc làng Hành Thiện,  xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Chùa quay hướng nam, ba  mặt giáp sông, đó là các con sông Đồng Lê, sông Ninh Cơ, sông Hồng, địa  thế thoáng đãng, rộng rãi. Địa thế khu chùa rất đẹp, hẳn khi dựng chùa  người xưa đã chọn lựa kỹ càng như bài minh trên bia Thần Quang tự đại pháp sư bi  đã ghi: “chùa Thần Quang, xã Hành Cung, huyện Giao Thủy, phủ Thiên  Trường là nơi vượng khí trời Nam, danh lam nước Việt. Núi cao chót vót  nghìn hàng như dáng hùng dáng hổ, dòng ngân nước uốn mênh mông, khúc  lượn quanh co cuồn cuộn, anh linh do kiền khôn chung đúc, tu luyện thành  tiên thành phật”.
Phía trước chùa có hồ nước trong xanh, soi bóng tháp chuông uy  nghiêm, thơ mộng, phía Đông là biển, sông Hồng ở phía bắc, phía nam sông  Ninh Cơ bao bọc. Theo quan niệm phong thủy xưa thì vùng đất này có thế tay ngai tiện cho việc dựng chùa chiền, lâu đài, thành quách.
Chùa Keo có phong cách thờ tự tiền phật hậu thánh, được xây dựng kiểu  nội công, ngoại quốc, có quy mô lớn ở bao gồm: nghi môn, gác chuông,  chùa thờ phật, đền thờ thánh, tả hữu vu, nhà tổ, nhà oản, nhà để đồ…  được xây dựng đối xứng qua trục thiêng, tổng cộng 121 gian (có nơi còn  gọi là chùa trăm gian). Chùa nằm trong một không gian thiêng thờ thiền  sư Dương Không Lộ vùng Nam Định, Thái Bình với các công trình kiến trúc  đều có tên là Keo. Chùa được xây dựng trên một khu đất rộng, địa thế cao  ráo, theo thuyết phong thủy thì đây là vị trí đắc địa vì là nơi ngự của  vị thánh có vai trò quan trọng nhất trong đời sống tâm linh người dân  làng Hành Thiện. Chùa quay hướng Nam mang dương tính, gắn với điều thiện  và hạnh phúc, là hướng của trí tuệ và bát nhã, phía trước chùa là con  sông Đồng Lê mang tư cách một dòng chi huyền thủy khẳng định sự  tụ linh, tụ phúc của khu đất này; đồng thời lại nối với sông Ninh Cơ  (một nhánh của sông Hồng chảy qua mặt chùa phía xa xa) cùng với sự quanh  co, uốn lượn của nó như tạo thành đàn rồng rắn chầu về, như để biểu  hiện sự quy phục Phật pháp và thánh Dương Không Lộ (3).
Niên đại của chùa Keo thuộc thời Lê, điều này có thể khẳng định qua  tư liệu bia ký hoặc căn cứ vào phong cách thờ tự, trang trí, điêu khắc  tại chùa với hệ thống hoành tròn đặc trưng, hình chạm nổi các văn mây,  đao hỏa, kiếm lửa tại tam quan, chùa, đền cùng các di vật đồ thờ tiêu  biểu khác.
Chùa được xây dựng theo kiểu kiến trúc sau: nghi môn – tam quan (kiêm  gác chuông) – khu thờ phật – khu thờ thánh – hậu đường – hai dãy nhà  dọc (hành lang/tả hữu vu). Đại diện cho mặt bằng này có thể kể đến chùa  Bối Khê, chùa Trăm gian, chùa Keo Nam Định…
Trong mặt bằng kiến trúc này, ta thấy sự có mặt của một số công trình  vốn không xuất hiện ở các chùa thông thường như nghi môn, điện thánh và  tả hữu vu. Ngoài ra, trước TK XIX, tất cả những chùa tiền phật hậu  thánh đều không có sự tồn tại của những vườn tháp mang tư cách mộ sư (vì  dạng chùa này vốn không có sư)… Đây là những kiến trúc thể hiện rõ nét  riêng biệt của chùa tiền phật hậu thánh so với các dạng chùa khác ở nước  ta (4). Lớp cửa ngoài cùng của ngôi chùa là nghi môn (một số tài liệu  cho rằng là tam quan ngoại) bởi lẽ cổng ngoài chức năng để vào, ra còn  thể hiện ý nghĩa triết học sâu sắc. Tam quan gồm không quan, giả quan và  trung quan… Sau tam quan là nhất chính đạo, tượng trưng bằng con đường  duy nhất dẫn tới Phật đài (5). Như vậy, chùa Việt chỉ có thể có một tam  quan, sau tam quan các công trình kiến trúc phải nằm đối xứng qua trục  trung tâm. Công trình kiến trúc bên ngoài tam quan là nghi môn, tức là  cửa nghi lễ; nó không mang ý nghĩa triết học như tam quan. Bên cạnh đó,  tả vu, hữu vu chùa Keo được xây dựng vượt lên trước tòa tiền đường chùa  Phật, nối liền với tam quan. Chính điều này đã thể hiện sâu sắc tính  chất chùa kiêm đền thờ của chùa Keo.
Đền thờ thánh không được xây dựng ở một không gian riêng mà được xây  cùng với chùa thờ Phật, vì vậy dễ dàng nhận diện được hai mặt văn hóa  tâm linh Phật giáo và tín ngưỡng dân gian dung hòa, bổ sung cho nhau.  Đền thờ thánh được xây dựng phía sau chùa Phật. Theo kiến trúc dân gian  truyền thống, những công trình được xây phía sau có ý nghĩa linh thiêng,  quan trọng hơn các công trình phía trước. Bên cạnh đó, nghi môn được  xây dựng đơn giản, nổi bật hơn cả là bốn cột hoa biểu có kích thước khá  lớn khiến liên tưởng đến các nghi môn ở các ngôi đền thông thường. Nghi  môn lại nằm phía ngoài của tam quan, như vậy yếu tố thờ thánh ở đây đậm  nét hơn thờ phật hay nói cách khác kiến trúc của chùa Keo mang yếu tố là  một ngôi đền thờ thánh đậm nét hơn là một ngôi chùa phật.
Căn cứ vào đặc điểm chạm khắc và phong cách tượng thì hệ thống tượng  phật ở chùa Keo có niên đại thời Mạc, có thể nói đây là các tượng gỗ sớm  nhất còn lại tới ngày nay ở nước ta. Phật điện khá phong phú với đủ các  tượng phản ánh quan niệm thế gian trụ trì Phật pháp – cách thờ phật  phải có hình mẫu cụ thể để phật tử hướng vào. Từ đó mà khởi tâm thành,  lòng thiện và tin theo (6). Thứ tự sắp xếp của các pho tượng trong chùa  Keo không theo trật tự như một số ngôi chùa khác do nhiều nguyên nhân,  tuy nhiên có gần như đầy đủ các vị tượng trên phật điện. Ngoài ra còn  nhiều các di vật, đồ thờ tiêu biểu khác như khám thờ, nhang án thời Lê,  kiệu gỗ, bát bửu, thuyền rồng, chuông, khánh bằng đồng, bia đá, sắc  phong cùng nhiều di vật quý khác… trong đó tiêu biểu nhất là bộ tượng  Kim Cương (Hộ Pháp) và bộ chấp kích bằng gỗ được các nhà nghiên cứu đánh  giá là một trong số những di vật còn đầy đủ và có niên đại sớm nhất ở  nước ta hiện nay.
Mặc dù đã trải quan nhiều lần tu sửa, có lần sửa chữa nhỏ, có lần sửa  chữa lớn nhưng cho đến nay chùa vẫn giữ nguyên được những nét kiến trúc  thời mới khởi dựng.
Dân làng Hành Thiện cho rằng theo thuyết phong thủy, ngôi chùa có ảnh  hưởng rất lớn đến truyền thống của làng, do vậy từ xưa đến nay làng có  nhiều người đỗ đạt, vinh hiển, là nơi có nhiều nhà khoa bảng bậc nhất ở  miền Bắc. Truyền thống đó đến nay vẫn được các thế hệ làng Hành Thiện  gìn giữ, bảo tồn và phát huy. Do vậy nhân dân Hành Thiện vẫn giữ nguyên  lòng kính trọng, tri ân vị thánh tổ của làng – thiền sư Dương Không Lộ.  Chùa Keo cũng như lễ hội tại chùa Keo có vị trí rất thiêng liêng đối với  dân vùng Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình… nói chung và làng Hành Thiện  nói riêng.
Theo truyền thống của dân làng Hành Thiện, lễ hội chùa Keo được tổ  chức hai lần theo âm lịch để tưởng nhớ thiền sư Không Lộ. Lần thứ nhất  là hội xuân, được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng giêng âm lịch, có tục  nam mặc giả nữ vào tế, lễ. Hội chính được tổ chức vào tháng 9 âm lịch.  Trước đây mở hội từ 2 đến 16-9, nhưng từ năm 1925, 1926 tới nay, đời  sống nhân dân chật hẹp nên rút ngắn thời gian đi chỉ từ mùng 8 đến 16-9  âm lịch hàng năm (7). Trong những ngày diễn ra lễ hội, tổ chức các diễn  xướng nghi lễ, tế, rước; các trò diễn, trò chơi dân gian để ôn lại sự  tích của thiền sư Dương Không Lộ liên quan đến nghề sông nước cũng như  diễn xướng các truyền thuyết đề cập đến công tích của ngài.
Nhân dân làng Hành Thiện hiện còn lưu truyền câu ca dao về lễ hội  truyền thống để luôn luôn nhắc nhở cháu con nhớ về cội nguồn, nhớ về tổ  tiên mình;
Dù ai ngang dọc tây đông
Ngày rằm tháng chín hội ông nhớ về
Dù ai bận rộn trăm nghề
Ngày rằm tháng chín nhớ về hội ông (8).
Lễ hội chùa Keo là dịp để dân làng Hành Thiện thể hiện lòng tự hào về  một nhân vật lịch sử, một danh nhân, anh hùng sáng tạo văn hóa đã có  những đóng góp hết sức quan trọng đối với quốc gia Đại Việt thời Lý; qua  lễ hội dân làng tri ân vị thánh tổ, vị thành hoàng làng mình. Ngày nay,  trước ngày tổ chức lễ hội chừng nửa tháng (khoảng từ 1-9) công việc  được bắt đầu. Chùa được quét dọn sạch sẽ, phong quang, tượng thiền sư  Dương Không Lộ cùng các nghi vật, nghi trượng, đồ thờ được lau chùi sạch  sẽ, sắp xếp, sửa sang cẩn thận. Đèn nến được thắp sáng, khói hương nghi  ngút lan tỏa khắp chùa. Hương, hoa, trà, oản quả được dâng lên. Càng  đến gần ngày mở hội, không khí chuẩn bị càng trở nên khẩn trương, náo  nhiệt, cờ hội được cắm suốt từ tam quan chùa, dọc làng Hành Thiện ra tận  con sông đầu làng như thúc giục mọi người nhanh về dự hội càng làm cho  không khí lễ hội trở nên khẩn trương, náo nhiệt. 25 lá cờ đại được dựng  quanh làng làm nổi bật quang cảnh làng quê vào hội, kích thước mỗi lá cờ  là 2,7 x 3,7m (xấp xỉ 10,70m2 kể dải cờ). Viền cờ và dải cờ có diềm hình lưỡi lửa. Hai mặt lá cờ một bên đề chữ Thánh cung vạn tuế,  bên kia đề tên phe tham gia lễ hội. Trong khi cả làng đang chuẩn bị chu  tất, các gia đình trong làng cũng sửa sang, quét dọn nhà cửa, may sắm  quần áo đẹp, từ người già đến trẻ em, ai ai cũng náo nức mong chờ đến  ngày chính hội.
Đến ngày 12-9, tất cả công việc đã được chuẩn bị chu tất để bước vào  ngày hội với các nghi thức tế, lễ, diễn xướng, trò chơi truyền thống.
Do đặc điểm chùa Keo không có sư trụ trì tu hành, do vậy các công  việc tế, lễ và thực hiện các nghi thức tôn giáo đều do các thày chùa đảm  nhiệm (có tài liệu còn gọi là ông thống). Những thày chùa được dân làng  tín nhiệm chọn, ngoài khả năng tổ chức, điều hành phải là người có uy  tín trong dân, có tư cách đạo đức tốt, được mọi người nể trọng…
Vào những năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu là những năm phải trang hoàng chùa và  tượng thì công việc chuẩn bị cho lễ hội tiến hành sớm hơn, khoảng từ  mùng 8,9. Ngoài việc sửa sang chùa, cảnh sạch đẹp, gọn gàng, thay áo cho  tượng thiền sư Không Lộ, vào những năm hạn hán hoặc thời tiết thay đổi  bất thường, dân làng Hành Thiện còn làm lễ tắm tượng.
Theo truyền thống, lễ rước kiệu trong lễ hội xung quanh làng Hành  Thiện. Cuộc rước bắt đầu khoảng 7 giờ sáng. Đi đầu là thuyền rồng, tiếp  theo là hương án, long đình, kiệu đựng thùng sắc chỉ vua ban, kiệu chính  (không có bài vị), kiệu hờ. Tổng cộng năm cỗ kiệu. Từ sân chùa, đoàn  rước qua cổng phía đông, theo lối đường làng đến miếu chợ thì dừng lại  (hoặc vòng ra lối trước đình mới dừng lại). Sau khi đoàn bơi trải về,  đoàn rước tiếp từ miếu chợ hoặc từ đình, diễu quanh hồ về chùa, nhập  cổng tây (xuất đông nhập tây), khi về đến chùa là đã quá nửa buổi chiều.  Lúc đoàn rước đi qua đầu các dong, các dong phía trước và phía sau đều  bày hương án, nghi ngút khói hương và hoa quả, sản vật để bái vọng thiền  sư. Đoàn rước đi trên đường làng thì dưới sông vẫn diễn ra các cuộc bơi  trải tạo không khí rất sôi động.
Ngày nay, hành trình phụng nghinh được rút ngắn lại, không rước quanh  làng mà rước quanh đường ngang và quanh hồ bán nguyệt trước gác chuông,  song về cơ bản vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, do hành trình ngắn, thời gian  rước cũng rút ngắn lại nhiều, chỉ chừng hai, ba giờ đồng hồ là kết  thúc.
Ngoài các lễ vật thông thường như hương, đèn, hoa, trà, oản, quả thì  lễ hội chùa Keo còn có lễ vật hết sức độc đáo, đó là bánh dày. Điểm độc  đáo là mỗi cặp bánh dày rất lớn và trọng lượng lên đến 0,5 kg/ chiếc.  Tiêu biểu nhất cho sự tích diễn xướng thi tài, giải trí ở lễ hội chùa  Keo là hội bơi trải được tổ chức vào ngày 12 và chiều 15 mang ý nghĩa kỷ  niệm quãng thời gian làm nghề chài lưới của thiền sư Không Lộ. Điểm độc  đáo của bơi trải ở Hành Thiện là bơi trải đứng (người cầm chèo ở tư thế  đứng), khiến tốc độ của trải lớn hơn nhiều so với tốc độ bơi của các  trải khác.
Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, vào các buổi sáng chiều và tối,  các trò chơi, cuộc đấu, hát xướng được diễn ra xen kẽ, đều khắp cho đến  khi kết thúc lễ hội. Người xem vây kín thành từng đám, chỗ chọi gà chỗ  chơi cờ, tổ tôm, rộn ràng khắp sân chùa.
Có thể nói lễ hội chùa Keo Hành Thiện đã kết hợp được các yếu tố văn  hóa truyền thống và hiện đại. Thông qua lễ hội, có thể thấy được sức  sống mạnh mẽ của những phong tục tập quán và văn hóa làng.
Từ xa xưa thiền sư Dương Không Lộ đã trở thành nhân vật trung tâm của  các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong vùng mà những dấu tích về cuộc  đời của đức thánh vẫn còn hiển lộ đến ngày nay. Biểu hiện sinh động của  truyền thuyết về thiền sư là lễ hội truyền thống được tổ chức từ 10 đến  15-9 hàng năm, tái hiện và trình diễn các sự tích liên quan đến cuộc  đời đức thánh tổ. Do đặc điểm thiền sư Không Lộ không có đồ đệ kế tục  mang tính chất truyền thừa, nên việc phụng thờ thánh do những vị mang  tính chất như ông thống, đảm nhiệm và là việc của tất cả những người dân  sống trong phạm vi ảnh hưởng của thiền sư, coi thiền sư là thánh tổ.  Qua lễ hội, chúng ta phần nào có thể hình dung được sự thật lịch sử xung  quanh nhân vật huyền thoại đã được lưu truyền rộng rãi trong dân gian  qua bao lớp sương mù của thời gian và khói hương nghi lễ. Qua đó chúng  ta có thể hiểu được vai trò của Phật giáo đối với vương triều nhà Lý và  phục dựng nhân cách văn hóa tiêu biểu thời Lý; thời mà Phật giáo đóng  vai trò là quốc giáo mà thiền sư Dương Không Lộ là một nhân cách văn hóa  tiêu biểu của thời kỳ này.
_______________
1. Chu Huy, Về nhân thân hai vị Quốc sư thời Lý, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không, Văn hóa nghệ thuật số 8-2006, tr.71.
2. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990.
3, 4. Phạm Thị Thu Hương, Những ngôi chùa tiền phật hậu thánh ở vùng châu thổ Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Thông tin, 2007.
5. Trần Lâm Biền, Chùa Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1996, tr.116.
6. Trần Lâm Biền, Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.394.
7. Ty Văn hóa Nam Định, Hồ sơ di tích chùa Keo Hành Thiện, 1956.
8. Hội ông là tên gọi dân gian lễ hội chùa Keo.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 333, tháng 3-2012
Tác giả: Khúc Mạnh Kiên